Di tích lịch sử, văn hóa
Đền Lảnh Giang
Từ thị trấn Đồng Văn, theo quốc lộ 60A đi 8km đến ngã ba thị trấn Hòa Mạc, rẽ trái đi 5km đến bến đò Yên Lệnh, ngược bờ đê sông Hồng 3km là tới đền.
Theo thần phả, ngôi đền này thờ Tam vị danh thần đời Hùng Vương thứ 18 và Tiên Dung công chúa, Chử Đồng Tử. Tam vị danh thần là 3 con rắn, con của nàng Quý người trang Hoa Giám (nay là xã Yên Lạc) có công giúp vua Hùng Duệ Vương chống lại Thục Phán, được phong là Nhạc Phủ Ngư thượng đẳng thần, sau được gia phong là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng thái thượng đẳng thần. Trên mảnh đất này còn lưu truyền câu chuyện quen thuộc về Tiên Dung và Chử Đồng Tử trong kho tàng truyện kể dân gian Việt Nam.Ngôi đền được xây dựng từ bao giờ, đến nay chưa có tài liệu khẳng định. Căn cứ vào chữ Hán khắc trên cây nóc ở tòa đệ nhị thì đền Lảnh Giang được trùng tu lần cuối cùng vào niên hiệu Bảo Đại năm thứ 18 (1944). Trải qua nhiều lần tu sửa, đến nay đền Lảnh Giang có quy mô bề thế.
Đến đây du khách không khỏi ngạc nhiên trước một công trình kiến trúc đồ sộ, uy linh. Tam quan xây theo kiểu chồng diêm tám mái, các đầu đao cong vút thanh thoát hình đầu rồng đắp nổi, đan xen mặt nguyệt, lá lật cách điệu mềm mại. Phía trước Tam quan là hồ bán nguyệt, nước hồ phẳng lặng như bàn ngọc thạch bày lên những đóa hoa súng đỏ tươi. Giũa hồ, ngọn bảo tháp đứng trầm mặc được nối với cửa đền bằng chiếc cầu cong tạc hình lưỡi long hướng địa, ẩn hiện dưới bóng cây si già hàng ngàn năm tuổi.
Đền Lảnh Giang được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc gồm 3 tòa, 14 gian, hai bên có nhà khách, lầu thờ, 4 bên có tường gạch bao quanh. Trong đền có nhiều đồ thờ giá trị như tượng Tiên Dung công chúa, khánh long đình, khám đặt tượng thờ 3 vị tướng thời Hùng vương được chạm khắc công phu theo phong cách đời Lê. Ngoài ra đền còn giữ được hai kiệu bát cống long đình, một sập thờ và nhiều hoành phi, câu đối, nhang án. Kề bên đền Lảnh Giang về phía bờ sông là ngôi đền thờ Cô Bơ Thoải Phủ (hệ thống thờ Đạo Mẫu Việt Nam).
Mộc Nam, một miền quê cổ tích, hương khí đất trời hòa nhật trong trẻo, tạo nên vẻ thánh thiện nguyên sơ vốn có của vùng đất bãi, như du hồn ta về với Lảnh Giang. Gió từ các ngả sông ùa vào đền lung linh huyền thoại, âm âm truyền thuyết về nàng Quý, Tiên Dung, Chử Đồng Tử.
Ngày xưa, ở trang An Cố huyện Thuỵ Anh - phủ Thái Ninh - trấn Sơn Nam, có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà đã cao tuổi mà vẫn chưa sinh được mụn con nối dõi.
Một đêm trăng thanh, gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang dạo chơi, bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em thân thích, đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô gái về làm con và đặt tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm nơi đất tốt để an táng cho ông.
Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, đang lúc ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn ba vòng quanh mình nàng, khiến nàng kinh hoàng mà ngất lịm, lúc sau thuồng luồng bỏ đi. Từ hôm đó, nàng thấy trong lòng chuyển động và mang thai. Không chịu được những lời dèm pha, khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Thời gian thấm thoát thoi đưa, ngày mùng 10 tháng giêng năm Tân Tỵ, nàng chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điềm chẳng lành, nàng đem cái bọc quẳng xuống dòng sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao”. Khấn xong, ông Minh rạch ra bỗng thấy ba con rắn từ trong chiếc bọc trườn xuống dòng sông. Con thứ nhất theo hướng cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám (nơi nàng Quý đang sống). Nhân dân các trang ấp ở đay thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.
Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều nghe thấy dưới dòng sông có người ngâm vịnh
Sinh là tướng, hoá là thần
Tiếng thơm còn ở lòng dân muôn đời
Khi nào giặc dã khắp nơi
Bọn ta mới trở thành người thế gian
Bấy giờ Thục Phán thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng thấy Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thủy bộ cùng một lúc đánh vào kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất. Đêm ấy, nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thủy thần sinhở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉng dậy, Duệ Vương liền sai sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang ĐÀo Động, bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng, hình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó ông Vĩnh gọi hai em đến bái biệt thân mẫu rồi cùng nhau đến yết kiến vua Duệ Vương. Vua Hùng Liền phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, Ái Châu, Hoan Châu. Hai em và các tướng hợp lại dưới sự chỉ huy của ông, năm đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.
Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn, nhà vua phong ông là Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần, nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua đồng ý, ông Vĩnh cùng hai em về quê bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng. Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Vĩnh cho lập đồn dinh cư trú, khuyến khích nông trang, khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp vùng được sống yên vui.
Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không còn nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Thái Thượng Đẳng Thần, đồng thời đặt lệ, ban sắc chỉ cùng tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu phụng thờ.
Các triều đại sau đó đều có sắc phong cho ông, tất cả 12 sắc. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7 (1913).
Cùng trên mảnh đất thiêng này có câu chuyện về mối tình Tiên Dung, Chử Đồng Tử từ ngàn xưa còn vọng đến hôm nay. Thủa ấy, ở thôn Đằng Châu có một nhà nghèo gặp cơn hỏa hoạn. Hai cha con chỉ còn một manh khố ngắn dùng chung để khi có việc ra ngoài. Lúc người cha qua đời, Chử Đồng Tử đã dành chiếc khố cuối cùng khâm liệm cha. Từ đó ngày ngày chàng thường phải ngâm mình dưới nước.
Một hôm, Tiên Dung con gái vua Hùng đi du ngoạn, cảm nhận cảnh sông nước nên thơ, công chúa cho dừng thuyền lại bên bãi cát. Chử Đồng Tử đang mò cá dưới sông, nhìn thấy thuyền rồng, cờ rong lọng tía mà kinh sợ, vội vàng vùi mình dưới cát. Ngay lúc đó Tiên Dung sai các thị nữ quây màn để tắm đúng vào nơi mà Chử Đồng Tử ẩn nấp. Nước xối từ trên người nàng, trôi dần cát ở dưới chân, lộ Chử Đồng Tử trong màn quây. Sau giây phút ngỡ ngàng, cả hai người cho là duyên trời đã định, cùng nhau về triều xin phép vua cha cho kết duyên thành vợ chồng. Chử Đồng Tử, Tiên Dung đã về trời nhưng tình yêu, lòng hiếu thảo còn ở lại mãi với trần gian.
Trần Danh Lâm (1705-1777) khi về thăm Lảnh Giang đã có bài thơ:
“Con gái vua Hùng, tướng vua Hùng
Đền này truyền việc lại nhà thờ chung
Sự nghiệp nhân duyên thì rất đẹp
Tình đời chẳng đẹp đáng thau không”
Theo các học giả, dựa vào các tư liệu thành văn (thần phả, sắc phong) và đặc điểm kiến trúc ngôi đền cũng như truyền thuyết địa phương, mốc thời gian xây dựng đền vẫn chưa có tài liệu khẳng định. Ngôi đền còn lại hôm nay, hẳn rằng qua các triều đại trước đó, công trình đã được tu sửa nhiều lần, căn cứ vào những chữ Hán khắc trên cây nóc ở toà đệ nhị thì đền Lảnh Giang được trùng tu lại lần cuối vào niên hiệu Bảo Đại năm thứ 18 (1926-1945).
Bởi sự khắc nghiệt của thời gian, trải bao thăng trầm lịch sử, ngôi đền đã bị xuống cấp. Những năm qua được sự quan tâm, chỉ đạo, lãnh đạo của chính quyền địa phương, ngành văn hoá các cấp cùng bách gia trăm họ công đức, đền đã được tu sửa làm cho đền Lảnh Giang trở thành khu di tích quy mô, bề thế nhưng không mất đi dáng vẻ xưa của ngôi đền.
Ngoài giá trị tâm linh, đền Lảnh Giang còn là trung tâm của các cơ sở cách mạng trên đất Mộc Nam, ngọn cờ búa liềm sớm nhất được treo trên cây đa đình làng Yên Lạc (1931). Tháng 7/1945 nhân dân tập trung ở sân đền nghe đồng chí Lê Thành tuyên truyền chủ trương của phong trào cách mạng. Ngày 20/8/1945 nhân dân tập trung ở sân đền kéo về huyện lỵ tham gia cướp chính quyền…Tháng 10/1946 chi bộ đầu tiên của tổng Mộc Hoàn và Ủy ban hành chính kháng chiến khu Mộc Hoàn được thành lập ở đây. Đền Lảnh Giang là cơ sở tin cậy để các cán bộ, đảng viên huyện về nằm vùng hoạt động, theo dõi tình hình địch, lãnh đạo tổ chức chính quyền cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
(Nguồn: hanam.gov.vn)
Ý kiến của bạn
Di tích lịch sử, văn hóa
Non nước Việt Nam
Doanh nghiệp Du Lịch