Di tích lịch sử, văn hóa
Đền thờ Trương Định ở Gia Thuận
Đền thờ Trương Định toạ lạc tại ấp 2, xã Gia Thuận, huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
Đền thờ thuộc loại hình di tích lịch sử dân tộc, nơi thờ cúng vị anh hùng dân tộc Trương Định-người có công khai phá mở mang vùng đất Gò Công. Ông là một trong những người lãnh đạo nhân dân Nam Kỳ đứng lên chống quân xâm lược Pháp trong giai đoạn đầu 1858-1864 trước sự nhu nhược của Triều Đình nhà Nguyễn.
Để tưởng nhớ công đức của Ông, nhân dân Gò Công thường gọi là “Trương Công Định” hoặc “Ông Trương”, có nơi ở Gò Công gọi là “Ông Lớn”.
Gò Công là quê hương thứ hai của Trương Định, nơi Ông lớn lên lập nghiệp và kháng chiến chống ách xâm lược của thực dân Pháp.
Trương Định sinh năm 1820, theo sử triều Nguyễn (Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện) Trương Định người Bình Sơn, xã Tư Cung tỉnh Quảng Ngãi, nay thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
Trương Định là con của quan Thuỷ Vệ Uý Trương Cầm, tỉnh Gia Định. Năm 22 tuổi (1844) Trương Định theo cha vào Nam và cưới vợ là bà Lê Thị Thưởng con một nhà hào phú ở làng Tân Phước, huyện Tân Hoà (có sách chép Tân An). Bà Thưởng sinh được hai người con một trưởng nam tên Quyền (dân miền Nam gọi là cậu hai), người con thứ hai là nữ chết khi còn nhỏ. Khi cha mất Trương Định ở luôn quê vợ Tân Hoà.
Năm 1859, ông đem hết tài sản và đi quyên góp giúp dân miền Trung bị nạn đói. Trong năm này Trương Định đã đưa gia quyến gồm 5.000 dân nghèo vùng Nam-Ngãi vào khai hoang lập ấp các vùng Bình Thuận, Tân Phước, Gia Thuận, Kiểng Phước Gò Công… Theo Nguyễn Thông Lãnh Binh Trương Định truyện “Đầu đời Tự Đức, Trương Định bỏ gia tài mộ dân lập đồn điền, được bổ chức Quản Cơ" trong thời gian khẩn hoang và lạc quyên cứu đói Trương Định đã gặp và cưới bà Trần Thị Sanh là anh em con cô con cậu với bà Từ Dũ Thái Hậu (mẹ vua Tự Đức).
Tháng 3-1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long, triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong làm Lãnh Binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hoà và gấp rút nhận chức mới ở An Giang. Nhưng lòng dân và nghĩa quân không chịu, trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu, Ông nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử Ông làm chủ soái 3 tỉnh để giết giặc. Cảm sự tính nhiệm của những người yêu nước và nhân dân Ông gạt bỏ lệnh của triều đình và nhận chức "Bình Tây Đại Nguyên Soái" do dân phong.
Giặc Pháp bao vây Đám lá tối trời, truy kích Ông và nghĩa quân. Thấy được những mặt bất lợi của căn cứ địa Gò Công đồng bằng bằng phẳng, trống trãi dễ bị giặc bao vây tiêu diệt. Ông rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Gò Công chọn Lý Nhơn một vị trí nằm giữa vùng đất phù sa có rừng dừa nước che kín giáp ranh Biên Hoà (nay là Tp.Hồ Chí Minh) làm đại bản doanh. Để có thời gian củng cố lực lượng nơi căn cứ mới, Trương Định cho phân tán nghĩa quân thành nhiều toán nhỏ. Tuy nhiên việc xây dựng căn cứ mới gặp nhiều khó khăn, nhất là phải đối phó với thủ đoạn của thực dân Pháp.
Thoát cuộc bố ráp truy kích của giặc ở Lý Nhơn, Trương Định trở về Đám lá tối trời, một mặt Ông xây dựng lại lực lượng và cơ sở kháng chiến một mặt Ông truyền hịch đi khắp nơi lên án dã tâm xâm lược của kẻ thù và kêu gọi các sĩ phu, mọi người hãy đứng lên góp công góp sức, hiến kế giúp Ông đánh giặc đó là hịch tháng 8 năm 1864. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Ông khắp nơi một làn sóng kháng chiến lại sôi nổi ở Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Chợ lớn và vùng giáp ranh Biên Hoà làm cho giặc Pháp càng sốt ruột càng ra sức truy tìm để diệt Ông.
Đêm 19 tháng 8 năm 1864, dò biết nơi ở của Trương Định, tên phản bội Huỳnh Công Tấn cho quân bao vây đột nhập vào nhà. Trương Định và những nghĩa quân của ông chiến đấu chống trả thật quyết liệt. Ông diệt được một số địch, nhưng bản thân bị thương nặng, biết mình không sống được và quyết không để rơi vào tay giặc, sẳn gươm trong tay, sau khi điểm mặt tên Tấn rồi Ông tự đâm vào bụng tự sát.
Trương Định mất đi nhưng sự nghiệp của Ông vẫn được các nghĩa quân tiếp tục. Hơn năm năm chiến đấu tính từ ngày giặc Pháp xâm lược nước ta tháng 2 năm 1859 đến ngày Trương Định mất 20 tháng 8 năm 1864 chưa phải là dài, nhưng cuộc khởi nghĩa của Ông lập nhiều chiến công vang vội trong điều kiện lực lượng so sánh quá chênh lệch là có lợi cho phía địch nhưng thành tích thật vĩ đại, uy danh của Ông rất lớn ảnh hưởng phong trào khởi nghĩa Trương Định rất to, lan rộng ra khắp cả nước, xứng đáng là ngọn cờ đầu các phong trào khởi nghĩa ở Nam bộ hồi nữa sau thế kỷ trước.
Vào những năm đầu thế kỷ 20 miếu được trùng tu lại do nhân dân đóng góp tiền của xây dựng lại to rộng hơn, lúc này không gọi miếu mà gọi là đình: Đình Gia Thuận với chất liệu bằng gỗ quí, mái lợp ngói âm dương, keo cột theo kiểu tứ trụ chồng rường, cột kê trên táng đá xanh nền loát gạch tàu, bó nền bằng đá tổ ong với đạo lý “ uống nước nhớ nguồn” huyện Gò Công đã tiến hành tu bổ lại toàn bộ đền thờ Trương Định-Gia Thuận với qui mô và khang trang như ngày nay.
Di tích Đền thờ Trương Định ở Gia Thuận là di tích cấp quốc gia cùng với di tích Ao Dinh và di tích Đám lá tối trời có tên chung là:" Các địa điểm liên quan đến cuộc khởi nghĩa Trương Định: ĐỀN THỜ TRƯƠNG ĐỊNH, ĐÁM LÁ TỐI TRỜI, AO DINH"
Hiện nay không những ở Thị xã Gông Công, huyện Gò Công, thành phố Mỹ Tho mà ở Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, và hầu hết các thành phố, thị xã khác trong cả nước đều có đường phố lớn và nhiều trường học cũng mang tên Trương Định.
Di tích đền thờ Trương Định ở Gia Thuận được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia năm 2004./.
(Nguồn: tiengiang.gov.vn)
Ý kiến của bạn
Di tích lịch sử, văn hóa
Non nước Việt Nam
Doanh nghiệp Du Lịch