Điểm Du lịch
Bảo Tàng Quang Trung
Bảo Tàng Quang Trung: Từ thành phố Quy Nhơn theo QL 19 về hướng tây 49 km là thị trấn Phú Phong - huyện Tây Sơn - quê hương của 3 anh em người anh hùng dân tộc Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Vẫn cảnh sắc quen thuộc của một vùng quê trù phú miền nam trung bộ với con sông Côn chảy giữa những nương dâu, những ngôi nhà thấp thoáng sau những rặng tre. Chính tại nơi đây đã phát sinh phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Bảo tàng Quang Trung và điện thờ Tây Sơn ở thôn Kiên Mỹ là nơi mà trong cả nước còn lưu giữ khá đầy đủ những di tích hiện vật có liên quan tới phong trào Tây Sơn. Bên cạnh nhiều hiện vật lịch sử và văn hóa còn có xác ướp của dì vợ Nguyễn Nhạc. Hai di tích nằm trong khu bảo tàng là gốc me cổ thụ và giếng nước xưa của gia đình anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gò đá đen nằm ở phía đông nhà bảo tàng là nơi đóng binh tập luyện của quân Gò Lăng và Hồ Huyệt. Ở Phú Lạc là nơi thờ phụng lăng mộ của ông bà Hồ Phi Phúc và Nguyễn Thị Đồng là 2 cụ thân sinh của vua Quang Trung.
Tiểu sử Hoàng Đế Quang Trung
Hoàng Đế Quang Trung tên thật là Nguyễn Huệ (Hồ Thơm), sinh năm quý dậu (1752) là con của ông Nguyễn Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng - sinh được 3 người con là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gia đình ông Phúc làm nghề buôn trầu cau, cuộc sống cũng khá giả: anh em Nguyễn Nhạc theo học ở thầy giáo Hiến, được thầy dạy cả văn lẫn võ. Năm 1771, anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Quân của Tây Sơn thường lấy của người giàu chia cho người nghèo. Năm 1778, quân Tây Sơn diệt dược chúa Nguyễn ở đàng Trong và Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế lập nên triều đại Tây Sơn lấy niên hiệu là Thái Đức, phong cho làm Long Nhượng tướng quân và được giao quyền đánh đông dẹp bắc, là một tướng hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy “bách chiến bách thắng”.
Năm 1777, chúa Nguyễn Phúc Thuần và Hoàng Tôn Dương bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy ra đảo Thổ Chu. Năm 1786, Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm cho 2 vạn quân thủy và 300 chiếc thuyền sang xâm lược nước ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan trên sông Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường).
Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra bắc hà lật nhào chúa Trịnh chuyên quyền, tôn phò nhà Lê. Vua Lê Hiển Tông phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Súy Dực chính phù vận Lê Quốc Công và gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Tháng 7/1786, vua Lê Hiển Tông qua đời Lê Duy Kỳ lên nối ngôi vua lấy niên hiệu là Lê Chiêu Thống. Sau đó Nguyễn Huệ cùng công chúa Ngọc Hân kéo quân vào nam. Tháng 4/1788, Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành chạy ra ngoài, một lần nữa Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc Hà dẹp loạn. Ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà và rút về Phú Xuân. Cuối năm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh vào chiếm đóng kinh đô Thăng Long.
Nghe tin cấp báo, ngay ngày hôm sau 25/11 mậu thân (22/12/1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Chiều ý các tướng quân, và để tỏ rõ danh nghĩa với cả nước, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung. Ngày 29/11 năm mậu thân (26/12/1788), đại binh của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An và dừng chân tại đó 10 ngày để tuyển thêm binh lính nâng tổng số quân lên 10 vạn, với đội tượng binh 200 con. Quang Trung chia làm 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Hoàng đế Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân sỹ đối với quân Mãn Thanh xâm lược. Ngay sau lễ duyệt binh, quang Trung đã cho tiến quân ra Bắc Hà. Ngày 20/12 năm mậu thân (15/1/1789), đại quân của Quang Trung đã ra tới Tam Điệp (Ninh Bình). Trước khi vào chiến dịch, vua Quang trung nói với quan quân rằng: “Nay ta tới đây thân đốc việc binh, chiến thư đã có phương lược sẵn chỉ nội 10 ngày nữa, thế nào cũng quét sạch giặc Thanh”, và vua đã tổ chức cho quan quân ăn tết nguyên đán trước vào ngày 25/12 mậu thân (20/1/1789) đúng như lời hứa của vị tổng chỉ huy tài tình dùng binh táo bạo, thần tốc, ngày 5/1 năm kỷ dậu (1789) đội quân bách chiến bách thắng của hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh, tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa do vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy tiến vào giải phóng Thăng Long.
Ngày 29/7 năm nhâm tý (1792) vào khoảng 11h đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi được 4 năm, hưởng dương 41 tuổi, ông chết đi để lại biết bao dự kiến, hoài bão to lớn của người anh hùng kiệt xuất chưa thực hiện được.
NHÀ BẢO TÀNG QUANG TRUNG:
Nhà bảo tàng Quang Trung được xây dựng trên mảnh vườn cũ nơi sinh ra người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ diện tích 6 ha vào ngày 11/12/1977. Đến ngày 25/11/1979, công trình này được hoàn thành và đưa vào sử dụng phục vụ cho nhu cầu tham quan và nghiên cứu của đông đảo quần chúng nhân dân kỷ niệm 190 năm ngày chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. Năm 1996, trước sự xuống cấp của công trình, ngày 11/4/1996, UBND tỉnh Bình Định đã cho trùng tu, nâng cấp nhà bảo tàng. Đến ngày 16/1/1998, công trình hoàn thành và kịp thời đưa vào sử dụng phục vụ lễ hội kỷ niệm 109 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa.
So với công trình cũ thì công trình mới này có diện tích sử dụng lên tới 138ha, toàn bộ phần trần và trụ được bê tông hóa vững chắc, mái được lợp ngói âm dương tráng men. Nhìn về tổng thể thì bảo tàng Quang Trung vừa mang tính hiện đại vừa mang tính cổ kính với hệ thống mái, cột, hoa văn mang dáng dấp kiểu kiến trúc mái đình, chùa Việt Nam của thế kỷ 18. Phía trước bảo tàng có bức tượng vua Quang Trung dược xây dựng năm 1979.
Hiện nay bảo tàng trưng bày 1 phòng mới, mang tính hoành tráng hiện đại với chủ đề chính là “khởi nghĩa và chiến thắng” được trùng tu năm 1996. Phòng thờ 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, khối tượng này tiêu biểu cho những người anh hùng nông dân áo vải, thể hiện vai trò, năng lực và tính cách của mỗi cá nhân. Tiếp bên 3 pho tượng là bức phù điêu bằng đồng, một bên là chủ đề tư nghĩa và khởi nghĩa, một bên mô tả nghĩa quân Tây Sơn với tướng mạnh binh hùng đã làm nên lịch sử. Trên 3 pho tượng có những phiến đá được cách điệu như những ngọn núi của vùng Bình Định, được xếp vào nhau một cách vững chắc nói lên sức mạnh đoàn kết - một yếu tố quan trọng đã tạo nên phong trào chính nghĩa Tây Sơn.
Còn lại 9 phòng trưng bày khép kín với tất cả các hiện vật đã sưu tầm được trong thời gian từ 1975 - 1979 theo nội dung của tiến trình phát triển lịch sử phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn từ khi tổ chức xây dựng lực lượng đến khi triều đại Tây Sơn suy vong (1771 - 1802):
Phòng 1: trưng bày 45 hiện vật các loại với chủ đề “Bối cảnh lịch sử trước khởi nghĩa Tây Sơn”.
Phòng 2: trưng bày 26 tài liệu, hiện vật với chủ đề “Quê hương và thời niên thiếu của các thủ lĩnh Tây Sơn”.
Phòng 3: trưng bày 78 tư liệu, hiện vật với chủ đề: “Chuẩn bị khởi nghĩa”.
Phòng 4: trưng bày 45 hiện vật và tư liệu với chủ đề “Bước phát triển của phong trào giải phóng phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi”.
Phòng 5: trưng bày 19 tư liệ, hiện vật với chủ đề “Chống phong kiến và thống nhất đất nước”.
Phòng 6 + 7: trưng bày 64 hiện vật và tư liệu chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập.
Phòng 8: trưng bày 139 hiện vật với chủ đề “Xây dựng đất nước”.
Phòng 9: trưng bày 60 hiện vật, tư liệu, đây còn gọi là phòng lưu niệm, phản ánh tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với người anh hùng áo vải Quang Trung.
Nhắc tới Bình Định là nhắc tới làng đất Tây Sơn với những làng võ nổi tiếng của miền Trung với roi Thuận Truyền, quyền An Vinh. Đàn bà con gái ở đây đâu có thua kém gì con trai nam nhi tuấn kiệt qua câu ca bất hủ: “Ai về Bình Định mà coi / Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền”.
NHẠC VÕ TÂY SƠN:
Nhạc võ Tây Sơn gắn liền với lò võ nổi tiếng của người Việt ở Bình Định. Tương truyền loại nhạc này do ba anh em người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đặt ra cho quân khởi nghĩa luyện võ. Với một bộ trống 17 chiếc, người tập võ phải dùng hai tay để đánh 12 chiếc, còn lại 5 chiếc đánh bằng đầu, hai gót chân và hai khuỷu tay. Người tập võ đánh được 17 trống được xem là “võ thuật như thuần”.
Sau khi ba Ngài mất, mỗi dịp tế lễ để tượng niệm những vị anh hùng đã lãnh đạo đánh quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, nhân dân ở quê các Ngài vẫn đánh trống Nhạc võ Tây Sơn gồm 4 bài: Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Quân, Khải Hoàn. Nó đã trở thành một loại nhạc lễ trong di sản nghệ thuật của người Việt Nam .
TỪ VĂN MINH TRỐNG ÐỒNG
Bộ môn văn hóa này, theo dân thoại Bình Ðịnh gọi là “Nhạc Võ Tây Sơn” và theo nhạc pháp gọi là “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”. Ai cũng biết, sắc thái đặc biệt trong nền văn hóa cổ xưa của người Việt nổi bật hơn cả là việc dùng trống. Những cuộc khai quật đã đem đến cho các nhà khảo cổ cái trống đồng mà đặc trưng hơn cả là “trống đồng Ngọc Lũ” là chứng cớ đặc biệt của nền văn minh Việt.
“Tiếng trống từ xưa đến nay đối với dân tộc Việt Nam vẫn là hiệu lệnh để thi hành công việc tập đoàn, để báo hiệu một công việc có quan hệ chung, trống ra quân, trống ngũ liên, trống thu không, trống cầm canh… thường ở đình làng nào cũng có cái trống lớn để báo hiệu, trước khi là một công việc nghệ thuật từ trống chầu đến cầm chầu cho con hát. Vậy dụng ý của trống đồng là đại biểu uy lực của thủ lãnh quần chúng, ban hành mệnh lệnh để rồi trở nên huy hiệu của mệnh lệnh và trở nên thiêng liêng, cho đến thời quốc gia độc lập mới có đền thờ “Ðồng Cổ” như là quốc giáo (1).
Vì vậy, ta có thể nói rằng việc chế tạo và sử dụng trống là sở trường của Văn Hoá Việt Nam, và không có chi là lạ khi ta biết rằng trong thời Tây Sơn (1788-1802) sắc thái đặc biệt nọ của văn hóa dân tộc được anh em Nguyễn Nhạc khai thác đến triệt để, thì nghệ thuật chơi trống cũng đưa đến tuyệt đỉnh
ÐẾN NHẠC VÕ TÂY SƠN
Nhạc khí căn bản của nhạc võ Tây Sơn là một dàn trống do quân Tây Sơn dùng khi thao diễn quân sĩ tại võ trường, khi xuất quân cho khí thế thêm mạnh mẽ, khi thúc quân lướt tới trận mạc cho mau lẹ, khi cần hành quân tiến thối nhịp nhàng, khi hãm thành cho uy thế thêm mãnh liệt, hoặc là khi khải hoàn mà reo mừng thắng trận.
Bộ trống đúng theo kinh điển gồm 12 cái, mỗi cái mang tên một con giáp của thập nhị chi: tí, sửu, dần, mẹo, thìn… và khi học nhạc thì tên các con giáp này cũng là tên các cung bậc do tiếng trống phát ra. Ðường kính mỗi trống lớn, nhỏ khác nhau, da bịt trống thì căng chùng, thẳng cũng khác nhau nên tiếng trống cao thấp khác nhau.
NGHỆ THUẬT ÐÁNH TRỐNG
Khi đánh trống thì nghệ sĩ dùng roi trống (dùi trống), có khi bỏ cả roi trống mà chỉ dùng những ngón tay, dùng bàn tay, dùng nắm tay, dùng cùi chỏ… nghĩa là dùng đủ cả bộ phận của hai tay. Trường hợp dùng roi trống thì cứ mỗi nhịp điệu cử động của ta là ta có thể nghe được bốn âm thanh phát ra: nơi đầu roi trống (1), kéo sang đuôi roi trống (2), hạ cùi chỏ xuống (3), và bật ngửa nắm tay vào mặt trống (4). Cứ như thế mà hai tay của nghệ sĩ nhảy múa trên 12 cái trống khi lơi lả nhẹ nhàng, khi dồn dập gấp rút, khi phấn khởi khoan thai. Chỉ có hai cái tay mà đánh cả một dàn trống 12 cái nên nhạc pháp gọi là “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”.
Tuy nhiên, trong trường hợp mà nghệ sĩ vượt khỏi tầm kinh điển đến bậc siêu thặng thì ngoài 12 cái trống đặt ngay trước mặt để cho hai tay sử dụng theo đúng nhạc pháp Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ, hãy còn đặt thêm 5 cái trống khác ở phía sau: một cái đặt ngang nơi đầu để đầu ngả ngửa húc vào, hai cái đặt ngay hai bên hông cho hai cùi chỏ thúc vào và còn hai cái nữa thì đặt cho vừa tầm hai gót chân để đá hậu vào, vị chi là 17 cái trống. Nghệ sĩ “chơi” nổi 17 cái trống (ông Tám Ngang) thì không còn nữa, mà trước đây chỉ còn có nghệ sĩ chơi được 12 trống mà thôi. Tuy nhiên, khi nghe xem thì vẫn thấy là siêu việt.
Trước khi chơi, nghệ sĩ đi một đường quyền, bái tổ rồi mới bắt đầu đánh trống và các bản nhạc lần lượt nổi lên. Nghệ sĩ, điệu bộ hùng dũng, công lực dồn lên nét mặt, trổ ra hai tay dồn dập bên 12 cái trống xem như một nghệ sĩ đang múa đường quyền bên 12 cái trống kiểu lăng ba vi bộ nên mới gọi là nhạc võ. Nghệ sĩ chơi bộ môn này cần phải biết võ thuật và khiếu thẩm âm để sự biệu diễn tăng thêm phần ngoạn mục.
NGHỆ THUẬT BỊ MAI MỘT
Những năm trước đây, không nghe ai nhắc đến “Nhạc Võ Tây Sơn” là vì một lẽ dễ hiểu. Thói đời thắng được thì là vua mà thua là giặc. Khi nhà Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn Gia Long chiến thắng, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn tru di đến nỗi mộ phần của các Ngài cũng bị quật lên, nghiền xương tán nhỏ làm thuốc súng bắn xuống biển, các tôi trung nhà Tây Sơn đều phải mai danh ẩn tích. Thậm chí đến những cái hay của nhà Tây Sơn cũng phải dấu đi kẻo để lộ cho người khác biết được đi báo thì sẽ bị tù đày. Do đó mà di tích nhà Tây Sơn đều bị phá bỏ hết. Ðồng bào Bình Khê thương nhớ ba Ngài lén lập đền thờ mà bề ngoài cũng phải ngụy trang là miếu thờ thần. Ai có thương nhớ giữ được cái gì hay của Ba Ngài thì để bụng chẳng dám phô trương vì sợ chính quyền nhà Nguyễn mà hay được thì không tránh khỏi hậu quả khốc hại. Nhạc võ Tây Sơn cũng cùng chung cái số phận này.
Tôi cũng xin phép mở một cái dấu ngoặc tại đây để nêu lên một lý do thứ hai (Thi sĩ Quách Tấn cho biết: Ngày xưa, môn võ thuật Bình Ðịnh chia làm 4 bộ môn: côn, quyền, kiếm, cổ (trống) chứ không phải kích.
Về môn Cổ thì võ sinh thường treo lủng lẳng ngay hàng, hàng năm, muời cái trống (loại trống chầu hát bội) để tập võ. Võ sinh sẽ đánh, đá vào cá cái trống ấy. Trống bị sức mạnh đánh, đá sẽ văng ra xa và nhờ dây treo thối ngược lại. Lối tập võ bằng trống này, một là để tạo những cú đánh (đấm), đá mạnh, nặng cân hơn; hai là để tập sự nhanh nhẹn chống đỡ, tránh né. Nếu ai không tinh mắt lẹ tay thì chắc chắn sẽ bị trống thối ngược lại đập cho vỡ mặt, gãy xương.
Lần về sau, dường như con người mỗi ngày một yếu dần nên không còn ai dám tập võ bằng trống nữa mà tập bằng những bao đựng cát hoặc bằng bưởi, bòng… Từ đó, danh từ tập võ bằng trống không còn ai dám nhắc tới vì nhắc tới cũng thêm hổ thẹn với người xưa, dần dà rồi mai một.
Có người bảo Nhạc Võ Tây Sơn là biến thể của lối tập võ bằng trống này. Ðiều đó không lấy gì làm chắc. Nhưng nếu quả vậy thì nhà Tây Sơn thật là kỳ tài đã khéo khai thác từ bộ môn võ thuật chuyển sang bộ môn âm nhạc, rồi lại dùng âm nhạc mà giáo dục võ thuật, gây không khí hào hứng trong quần chúng, kích động lòng hăng say chiến đấu của các chiến sĩ bằng tiếng trống.
Ngày nay, tại Campuchia, người ta cũng dùng trống để tập võ. Trên võ đài Miên mà thiếu tiếng trống thì võ sinh không tài nào biểu diễn được).
NHƯNG CÓ NGƯỜI CÒN GIỮ ÐƯỢC CHÂN TRUYỀN
Nhưng may thay, vận nước đổi dời, khi thực dân bị lật đổ, nhà Nguyễn cũng nhào theo thì chỉ có hai người, một ở Bình Khê (nay là Tây Sơn) và một ở Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, còn giữ được cái chân truyền ấy và xem như quốc bảo. Người ở Bình Khê là ông Tám Ngang, ông là người sử dụng được 17 cái trống, ông đem dạy lại cho ba người: hai đứa con trai ông và một người học trò. Ðứa con trai đầu chết, đứa thứ hai thì năm 1954 ở trong đoàn văn công của tập kết ra Bắc, còn lại người học trò kia là nghệ sĩ Tân Phong (tức Nguyễn Phong). Người ở Tuy Phước tên là ông Bầu Thơm (tức Võ Ðôn) là một ông bầu hát bội và cũng là một nhạc sư về loại nhạc hát bội, ông dạy lại một người học trò đó là nghệ sĩ Mười Thông (tức Hoàng Thông) là một nghệ sĩ hát bội và một roi trống hát bội có hạng.
Hai ông thầy vì tuổi già đã qui tiên còn lại hai người học trò trên kia, tuy không phải bậc siêu đẳng đánh nổi 17 trống, song cũng học được đúng truyền thống của nhạc pháp “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”. Trước năm 1975, ở Phù cát có anh Nguyễn Việt cũng tập đánh được 12 trống và ở Bình Khê có hai em bé gái (một em 7 tuồi, và một em 12 tuổi) do đoàn Ca Võ Nhạc Tây Sơn đào tạo cũng tập đánh được 5 trống (ngũ âm) xem rất ngộ.
Riêng Tân Phong, anh là một nghệ sĩ chơi thạo các môn như vẽ vời, ca hát, đờn địch, đắp tượng, chạm trổ, điêu khắc, viết tuồng, đóng kịch… Cái gì anh cũng thảy làm được. Nghe đâu anh cũng đã thất lộc cách đây vài năm. Xin thắp cho anh một nén hương lòng thương tiếc một người bạn tài hoa.
GIÓNG TRỐNG KHẮP NƠI
Trước năm 1975, anh Tân Phong vì mang nặng một tinh thần dân tộc nên anh sẵn sàng muốn truyền lại cho đoàn hậu bối cái quốc túy của văn hóa dân tộc, anh cũng đã thuận lời mời đi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn này nhiều nơi. Tôi còn nhớ:
Ngày 8-11-1967, Hội Văn Hoá Bình Dân Sài Gòn mời anh trình diễn tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ tại Sải Gòn nhân có buổi lễ của cơ quan UNESCO tổ chức tại trường này.
Ngày 11 và 12-1-1968, trình diễn tại rạp Thống Nhất Sài Gòn và sân Tinh Võ Chợ Lớn do ban Quản Trị Ðiện Tây Sơn Bình Khê tổ chức dưới sự giúp đỡ của Hội Ðức Trí Thể Dục SAMIPIC (Société pour l’Amélioration Moral Intellectuelle et Physique des Indochinois de Cochinchine) và đoàn thể Vovinam.
Ngày 16-8-1969, trình diễn tại Trung Tâm Văn Hoá Bình Ðịnh tại Qui Nhơn nhân ngày khánh thành Trung Tâm này có sự chứng kiến của ông Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền, đặc trách Văn Hoá, ông Ðại sứ Ðại Hàn Dân Quốc và rất đông quan khách Việt Hàn Mỹ tham dự.
Ngày 15-3-1970, được phái đoàn điện ảnh Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thu hình và đã trình chiếu trên màn ảnh truyền hình Việt Nam vào đêm 25-4-1970 tại Sài Gòn và tại Cần Thơ, Qui Nhơn, Huế vào các đêm kế tiếp.
Ngày 18-6-1970, được phái đoàn Ðiện ảnh Bộ Thông Tin thu hình làm phim tài liệu và sẽ trình chiếu trên các màn ảnh ciné và truyền hình.
Nghe đâu, sau năm 1975, hai em bé ở Bình Khê mà đoàn Ca Nhạc Võ Tây Sơn đào tạo năm nào nay cũng đã mang trống Tây Sơn đi đánh xứ người, được nhân dân nhiều nước tán thưởng.
Ngoài ra, hàng năm vào ngày mồng 5 Tết tại điện Tây Sơn Bình Khê, tiếng trống kích cảm của môn Nhạc võ Tây Sơn đã vang lên mở đầu cho chương trình tế lễ vua Quang Trung và lễ hội Tết đống Ða, kỷ niệm trận chiến thắng quân Thanh oanh liệt nhất trong lịch sử của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1979.
Ai có dự xem trên phim ảnh các lối đánh trống ở nước ngoài đều phải công nhận rằng nghệ thuật đánh trống của Tây Sơn thật là kỳ ảo.
Trước năm 1975, ban Phổ biến Nhạc Võ Tây Sơn lại còn biểu diễn phối hợp giữa Nhạc võ Tây Sơn và Võ thuật Bình Ðịnh bằng cách khi nhạc võ nổi lên thì các võ sinh nam nữ ở bên ngoài đi những đường quyền, những đường côn, siêu, đao… múa, đá, tọa, nhảy nhịp nhàng theo tiếng trống và đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa xem chẳng khác chi những corps de ballet của Tây phương.
BÀI BẢN NHẠC VÕ
Vì mang danh là nhạc võ nên bài bản phần nhiều cũng mang tính chất quân sự như bài: Khai Trường, Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Thành, Khải Hoàn.
Nhạc võ Tây Sơn, muốn biểu diễn đúng theo truyền thống và xem cho đẹp mắt thì trước hết, đi đầu là bộ phận của chiêng, trống, có quân hầu, lọng che; theo sau là hai toán quân (mặc áo cạp nẹp, chân quấn vòng ve, đầu đội nón dấu, tay cầm đao, kiếm, côn…) rồi đến giàn Nhạc Võ đặt trên một chiếc xe đẩy (Nhạc trưởng đứng giữa, hai bên là bốn nhạc công: đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa); sau rốt là vị tướng chỉ huy lẫm liệt trên mình voi hoặc ngựa.
Bắt đầu biểu diễn, vị tướng kêu gọi:
Ngoài biên thùy quân thù xâm lấn
Trong nội tình đất nước lâm nguy
Phận làm trai sinh tử nẹ chi
Quyết một dạ lên đường cứu quốc!
Nhạc trưởng tiếp theo
Anh em ơi!
(Toàn thể nhạc công) “Dạ”
Lệnh trên đà ban xuống
Phận dưới phải thi hành
Dùng kế mưu kích cổ đa thanh
Ðịch lầm tưởng hùng binh vạn đội
Ðằng trước khởi chinh cổ, giàn nhạc võ nổi lên và lần lượt theo các bài bản do vị tướng chỉ huy.
1.- Bài Khai Trường
Bài Khai Trường chỉ dùng để luyện tập quân sĩ hay chào mừng các vị tướng chỉ huy khi cần đến diễn võ trường. Ðiệu nhạc khoan thai, hùng dũng.Thuở xưa, mỗi dịp có vị Hoàng đế hay vị Nguyên soái đến diễn võ trường để mở một cuộc diễn võ, tập võ hay là chọn tướng sĩ thì khi vị ấy bước vào võ trường, mỗi xứ có một điệu nhạc riêng để chào mừng nhà lãnh đạo. Riêng đối với quân Tây Sơn, điệu nhạc đó là ba hồi trống khai trường. Nhưng mà nhạc hát bội thường chỉ có hai cái trống căn bản gọi là “trống âm” và “trống dương” hay “trống quân” và “trống chiến”. Nếu người ta biết rằng hát bội ngày nay là do cụ Ðào Tấn ở Bình Ðịnh lập thành qui chế, thì phép đánh trống của hát bội cũng đánh nhái theo điệu Khai Trường của Nhạc Võ Tây Sơn.
Trống Khai Trường của hát bội phải đánh đúng ba sách, mỗi sách tám phách. Khi đánh đúng 24 phách, nhạc sĩ mở ra thành trống chiến và chờ cho trống quân gióng giáp ba hồi lại 9 tiếng thì người trống chiến phải thét theo. Khi thét xong, nghĩa là khai trường xong thì nhạc sĩ mở trống ra cho nghệ sĩ ra sân khấu. Lúc đó thì người hát hát thứ gì, nam, khách hay xuân… thì người đánh trống phải đánh theo thứ ấy. Nhưng thường người đánh trống chỉ được quyền đánh khi người nghệ sĩ trên sân khấu đã “thủ” và “vĩ”. Nếu người đánh trống tự ý đánh theo, gọi là đánh nhái.
Nói về bài bản của nhạc hát bội thì có 8 bài kể từ bài nhịp một đến nhịp tám còn âm thanh hay hoặc dở tùy theo người nhạc sĩ bắt già hay non mà thôi.
2.- Bài Xuất Quân
Xuất quân có nghĩa là đem quân đội ra chiến trường, nó có nghĩa là khởi hành và bao giờ khởi hành thì điệu nhạc phải làm sao cho tinh thần chiến sĩ phấn khởi lên, hăng hái lên và cũng phải gây cho được trong lòng mọi người một niềm tin chiến thắng. Do đó, nhạc xuất quân của Nhạc Võ Tây Sơn theo điệu này là một điệu nhạc hùng, nhịp của nó càng nhặt làm cho tim mọi người đập càng lúc càng mau, nghe hăng hái, phấn khởi.
3.- Bài Hành Quân
Ta tưởng tượng một đạo quân hùng hậu đã xuất quân trong tình thần tối cao nhưng mà sau một khúc đường dài chắc hẳn cũng đã thấy mệt mỏi. Trong lúc ấy vị tướng chỉ huy chỉ kêu gọi nầng cao tinh thần suông, chúng ta có cảm tưởng rằng lời kêu gọi ấy không được đáp ứng. Trái lại, nếu lời khuyến khích là một lời êm ái, dịu dàng, có vẻ vui vẻ, có vẻ đùa cợt … thay vì đem lời hùng hồn thì đem lời an ủi êm ái, chắc có lẽ kết quả sẽ hay hơn.
Ðọc truyện Tàu, chúng ta còn nhớ lúc Quản Di Ngô ngồi trong cũi để được đưa về nước Tề thì thấy các quân khiêng cũi hơi mệt mỏi nên Quản Di Ngô bèn đặt ra những bài ca, bài hát để cho quân sĩ đi theo nhịp bài ca mà quên mệt mỏi. Còn trong dã sử của Tây Sơn, người Bình Khê thường thuật lại rằng: Khi quân Tây Sơn đi ra Thăng Long ngày đêm không nghỉ phải hai người võng một người thì tránh sao khỏi cái việc khiêng liên tiếp mười mấy ngày, quân Tây Sơn cũng có thể mệt mỏi, và huyền thoại truyền rằng vua Quang Trung mới bày ra chuyện thi đua kể chuyện tiếu lâm để cho quân sĩ hào hứng quên sự mệt mỏi và, chúng tôi cũng tin rằng không biết chừng dàn trống của Nhạc Võ Tây Sơn lúc ấy lại trổi khúc hành quân nhằm mục đích giống như mục tiêu của việc thi đua kể chuyện tiếu lâm trên kia.
Khúc nhạc này của Nhạc Võ Tây Sơn cũng diễn tả được cái ý nghĩ đó. Khúc nhạc này có đoạn nhạc sĩ chỉ đánh thuần bằng tay không, bằng những ngón tay, bàn tay, nắm tay và cùi chỏ nghe rất vui tai và xem đẹp mắt.
4- Bài Hãm Thành
Bây giờ chúng ta lại tưởng tượng tiếp như đoàn quân Tây Sơn đã đến dưới chân thành và vị tướng chỉ huy đã ra lệnh hãm thành thì phận sự của nhạc sĩ sử dụng giàn trống là phải gây cho chiến sĩ một tinh thần nỗ lực tối đa để công phá thành trì hầu cướp được cho mau lẹ. Ðiệu nhạc này nghe thật là sôi nổi, dồn dập, kích động tối đa lòng dũng cảm của mọi người.
5.- Bài Khải Hoàn
Và sau cùng là bài Khải Hoàn. Ðiệu nhạc này dĩ nhiên âm thanh phải diễn đạt cho được sự vui mừng, phấn khởi, hò reo của kẻ chiến thắng.
Ai đã có nghe xem Nhạc Võ Tây Sơn sẽ nhận rõ điều đó. Tôi nói nghe và xem vì Nhạc Võ Tây Sơn xem đã đẹp mắt mà nghe cũng vui tai. Ðiệu bộ và âm thanh hòa nhịp khi khoan, khi nhặt, khi bổng, khi trầm, khi lơi lả, lúc dồn dập thật là khó tả.
NGUYỄN HUỆ:
Anh hùng dân tộc, có tên là Quang Bình, Văn Huệ, nhân dân Bình Định đương thời gọi ông là “Ông Bình” hay “Đức ông Tám” (ông là con thứ bảy trong gia đình gồm bảy anh em).
Nguyên thân phụ ông họ Hồ sau đổi ra họ Nguyễn, người gốc Hưng Nguyên, Nghệ An, gia đình bị bắt đưa vào ấp Tây Sơn Thượng thuộc phường Quy Ninh, Bình Định (nay thuộc Tây Sơn, Bình Định). Gia đình ông có bảy anh em gồm 4 gái 3 trai, ông là con út.
Thuở nhỏ ông theo học với Giáo Hiến, tính ông thông minh, chăm học nên được thầy yêu mến, truyền dạy cho cả văn lẫn võ.
Năm 1771, anh em ông lập đồn trại ở vùng núi trong vùng, chiêu tập nghĩa quân chống lại triều đình phong kiến của chúa Nguyễn do quyền thần Trương Phúc Loan tác quái. Anh em ông thường lấy của cải nhà giàu phân phát cho nhân dân nghèo khổ. Lực lượng nghĩa quân từ đó ngày càng trở nên mạnh và có thực lực hơn, chiếm phủ thành Quy Nhơn, rồi tiến ra chiếm Quảng Ngãi.
Năm 1776, ông cầm quân vào đánh Bình Thuận tiêu diệt đạo quân của chúa Nguyễn đang tá túc ở khu vực này. Tiếp đó cùng Nguyễn Lữ vào Bình Định đất Gia Định.
Năm 1782, ông và Nguyễn Nhạc vào Nam đánh Nguyễn Ánh, Ánh thua phải bỏ thành Sài Gòn chạy ra đảo Phú Quốc, tháng 6/1783, ông đem quân ra vây Phú Quốc, gia đình Nguyễn Ánh phải chạy ra Côn Đảo, cuối cùng chạy sang Xiêm (Thái Lan) cầu viện. Chiến thắng xong ông lui về Qui Nhơn.
Cuối năm 1784, Nguyễn Ánh đem quân Xiêm về đánh chiếm Sa Đéc. Tướng giữ thành Gia Định là Trương Văn Đa (con rể Nguyễn Nhạc) thấy quân Xiêm sang đánh phá bèn phái người về Qui Nhơn phi báo, Nguyễn Huệ lập tức đem quân vào tiếp cứu.
Khi vào đến Gia Định, ông bố trí một trận địa phục kích trên địa phận Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (ngày 18/1/1785) gần Mỹ Tho (nay thuộc Tiền Giang) rồi lùa quân Xiêm lọt vào trận địa, ông đánh một trận quyết liệt tiêu diệt hơn 20 ngàn quân Xiêm. Quân xâm lược chỉ còn sống sót vài nghìn người theo đường bộ và đường thủy chạy về nước. Nguyễn Anh cùng đồng bọn cũng chạy theo quân Xiêm sang tá túc ở ngoại thành Băng Cốc. Diệt xong quân xâm lược ông đem quân về Qui Nhơn để Đô đốc Đặng Văn Trấn ở lại trông coi đất Gia Định.
Năm sau, Nguyễn Nhạc cử ông làm Tiết chế cùng Vũ Văn Nhậm đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa. Chỉ trong mấy ngày, ông chiếm được cả khu vực từ Thuận Hóa ra đến sông Gianh, tiêu diệt toàn bộ cánh quân phía Nam của chúa Trịnh. Kể từ năm 1786, từ Quảng Bình trở vào đều thuộc nhà Tây Sơn.
Lấy được Thuận Hóa, ông cùng Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân ra Bắc diệt họ Trịnh và cũng chỉ trong mấy ngày, nghĩa quân Tây Sơn đã bình định xong đất Bắc, diệt nốt họ Trịnh cũng năm 1786 này.
Sau khi chiếm Thăng Long, ông nêu khẩu hiệu “Phù Lê diệt Trịnh” được vua Lê Hiển Tông tiếp ở đền Vạn Thọ và phong ông làm Nguyên súy uy Quốc Công, gả công chúa Ngọc Hân cho. Xong đâu đó ông rút quân về Nam.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, ông được phong làm Phụ chánh, Bắc Bình vương đóng quân ở Thuận Hóa.
Năm 1788, vua Chiêu Thống dẫn quân Thanh về cướp nước ta, ông lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung (nên cũng gọi là vua Quang Trung) rồi đem quân ra Bắc dẹp giặc xâm lăng.
Lúc được tin quân Tôn Si Nghị kéo sang chiếm miền Bắc, ngày 25/11/1788, ông dẫn 10 vạn quân ra Bắc, bảo với quân sĩ rằng: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nở thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải dùng Ngô Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được phú cường rời, thì ta không cần phải sợ chúng nữa”. Rồi ông cho quân sĩ ăn Tết Nguyên đán trước, sau đó thẳng đường ra Thăng Long và chỉ mấy ngày thần tốc đã tiêu diệt toàn bộ lực lượng hùng hậu do Tôn Si Nghị cầm đầu. Thái thú Sầm Nghi Đống đóng quân ở Đống Đá quá khiếp sợ thắt cổ chết. Tôn Si Nghị hoảng sợ không kịp mặc áo giáp, bỏ chạy về nước, quân Thanh tranh nhau qua cầu phao, cầu sập, lính chết, thây đầy sông Nhị.
Ngày mùng 5 Tết ông và nghĩa quân vào thành Thăng Long mình còn vương thuốc súng, được nhân dân đón tiếp tưng bừng. Sau đó ông được vua Thanh sai sứ sang nước ta phong ông làm An Nam quốc vương và mời ông sang Yên Kinh yết kiến vua Thanh.
Năm sau, ông chọn Phạm Công Trị trá làm Quốc vương (Quang Trung) cùng Ngô Văn Sở, Đặng Văn Trấn, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn… sang Trung Quốc yết kiến vua Càn Long, được vua Càn Long hết lời ca ngợi. Trong những năm làm vua, ông đã ban hành nhiều chính sách tiến bộ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Ông có hai hoàng hậu: một là bà Phạm Thị (mẹ vua Cảnh Thịnh), sau khi bà mất được truy tặng là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ Chính Hoàng Hậu và bà Lê Ngọc Hân được phong là Như Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Với bà Phạm Thị có ba trai (Quang Trân, Quang Bàn, Quang Chiêu) và hai gái. Một trong hai con gái gả cho Phò mã Nguyễn Văn Trị. Với bà Ngọc Hân ông có hai con, sau bị Gia Long thảm sát ở Huế.
Năm 1792 ông mất, làm vua được 4 năm, hưởng dương 39 tuổi, miếu hiệu là Thái Võ Hoàng đế. Ông là một vị anh hùng lỗi lạc, một nhà chính trị quân sự kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Các sử gia triều Nguyễn cũng phải công nhận: “Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuộng, mắt sáng như điện, giảo kiệt, thiện chiến, ai cũng phải sợ”, đến một cung nhân trong cung vua Lê cũng thốt thành lời “Nguyễn Văn Huệ là bậc anh hùng lão thù, hung tợn, và giỏi cầm quân. Coi ông ta cầm quân vào Nam ra Bắc thật là thần xuất quỉ nhập, không ai có thể dò biết được, ông bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lịnh của ông ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn sấm sét”.
Đương thời hầu hết các danh sĩ đại thần (kể cả kẻ thù) đều ngưỡng mộ xem ông là “Bậc anh hùng” bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy đều dốc lòng vâng mệnh.
Thật vậy, ông “một người rất thông minh, hay dùng trí thuật lao lung người khác, trong lúc bàn luận, khi xuống lại năng lên, người ta không biết đằng nào mà dò”.
Hoàng Đế Quang Trung tên thật là Nguyễn Huệ (Hồ Thơm), sinh năm quý dậu (1752) là con của ông Nguyễn Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng - sinh được 3 người con là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ. Gia đình ông Phúc làm nghề buôn trầu cau, cuộc sống cũng khá giả: anh em Nguyễn Nhạc theo học ở thầy giáo Hiến, được thầy dạy cả văn lẫn võ. Năm 1771, anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương. Quân của Tây Sơn thường lấy của người giàu chia cho người nghèo. Năm 1778, quân Tây Sơn diệt dược chúa Nguyễn ở đàng Trong và Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế lập nên triều đại Tây Sơn lấy niên hiệu là Thái Đức, phong cho làm Long Nhượng tướng quân và được giao quyền đánh đông dẹp bắc, là một tướng hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy “bách chiến bách thắng”.
Năm 1777, chúa Nguyễn Phúc Thuần và Hoàng Tôn Dương bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy ra đảo Thổ Chu. Năm 1786, Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm cho 2 vạn quân thủy và 300 chiếc thuyền sang xâm lược nước ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan trên sông Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường).
Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân ra bắc hà lật nhào chúa Trịnh chuyên quyền, tôn phò nhà Lê. Vua Lê Hiển Tông phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Súy Dực chính phù vận Lê Quốc Công và gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Tháng 7/1786, vua Lê Hiển Tông qua đời Lê Duy Kỳ lên nối ngôi vua lấy niên hiệu là Lê Chiêu Thống. Sau đó Nguyễn Huệ cùng công chúa Ngọc Hân kéo quân vào nam. Tháng 4/1788, Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành chạy ra ngoài, một lần nữa Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc Hà dẹp loạn. Ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà và rút về Phú Xuân. Cuối năm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh vào chiếm đóng kinh đô Thăng Long.
Nghe tin cấp báo, ngay ngày hôm sau 25/11 mậu thân (22/12/1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Chiều ý các tướng quân, và để tỏ rõ danh nghĩa với cả nước, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung. Ngày 29/11 năm mậu thân (26/12/1788), đại binh của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An và dừng chân tại đó 10 ngày để tuyển thêm binh lính nâng tổng số quân lên 10 vạn, với đội tượng binh 200 con. Quang Trung chia làm 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Hoàng đế Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân sỹ đối với quân Mãn Thanh xâm lược. Ngay sau lễ duyệt binh, quang Trung đã cho tiến quân ra Bắc Hà. Ngày 20/12 năm mậu thân (15/1/1789), đại quân của Quang Trung đã ra tới Tam Điệp (Ninh Bình). Trước khi vào chiến dịch, vua Quang trung nói với quan quân rằng: “Nay ta tới đây thân đốc việc binh, chiến thư đã có phương lược sẵn chỉ nội 10 ngày nữa, thế nào cũng quét sạch giặc Thanh”, và vua đã tổ chức cho quan quân ăn tết nguyên đán trước vào ngày 25/12 mậu thân (20/1/1789) đúng như lời hứa của vị tổng chỉ huy tài tình dùng binh táo bạo, thần tốc, ngày 5/1 năm kỷ dậu (1789) đội quân bách chiến bách thắng của hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh, tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa do vua Quang Trung trực tiếp chỉ huy tiến vào giải phóng Thăng Long.
Ngày 29/7 năm nhâm tý (1792) vào khoảng 11h đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi được 4 năm, hưởng dương 41 tuổi, ông chết đi để lại biết bao dự kiến, hoài bão to lớn của người anh hùng kiệt xuất chưa thực hiện được.
NHÀ BẢO TÀNG QUANG TRUNG:
Nhà bảo tàng Quang Trung được xây dựng trên mảnh vườn cũ nơi sinh ra người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ diện tích 6 ha vào ngày 11/12/1977. Đến ngày 25/11/1979, công trình này được hoàn thành và đưa vào sử dụng phục vụ cho nhu cầu tham quan và nghiên cứu của đông đảo quần chúng nhân dân kỷ niệm 190 năm ngày chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa. Năm 1996, trước sự xuống cấp của công trình, ngày 11/4/1996, UBND tỉnh Bình Định đã cho trùng tu, nâng cấp nhà bảo tàng. Đến ngày 16/1/1998, công trình hoàn thành và kịp thời đưa vào sử dụng phục vụ lễ hội kỷ niệm 109 năm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa.
So với công trình cũ thì công trình mới này có diện tích sử dụng lên tới 138ha, toàn bộ phần trần và trụ được bê tông hóa vững chắc, mái được lợp ngói âm dương tráng men. Nhìn về tổng thể thì bảo tàng Quang Trung vừa mang tính hiện đại vừa mang tính cổ kính với hệ thống mái, cột, hoa văn mang dáng dấp kiểu kiến trúc mái đình, chùa Việt Nam của thế kỷ 18. Phía trước bảo tàng có bức tượng vua Quang Trung dược xây dựng năm 1979.
Hiện nay bảo tàng trưng bày 1 phòng mới, mang tính hoành tráng hiện đại với chủ đề chính là “khởi nghĩa và chiến thắng” được trùng tu năm 1996. Phòng thờ 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, khối tượng này tiêu biểu cho những người anh hùng nông dân áo vải, thể hiện vai trò, năng lực và tính cách của mỗi cá nhân. Tiếp bên 3 pho tượng là bức phù điêu bằng đồng, một bên là chủ đề tư nghĩa và khởi nghĩa, một bên mô tả nghĩa quân Tây Sơn với tướng mạnh binh hùng đã làm nên lịch sử. Trên 3 pho tượng có những phiến đá được cách điệu như những ngọn núi của vùng Bình Định, được xếp vào nhau một cách vững chắc nói lên sức mạnh đoàn kết - một yếu tố quan trọng đã tạo nên phong trào chính nghĩa Tây Sơn.
Còn lại 9 phòng trưng bày khép kín với tất cả các hiện vật đã sưu tầm được trong thời gian từ 1975 - 1979 theo nội dung của tiến trình phát triển lịch sử phong trào khởi nghĩa nông dân Tây Sơn từ khi tổ chức xây dựng lực lượng đến khi triều đại Tây Sơn suy vong (1771 - 1802):
Phòng 1: trưng bày 45 hiện vật các loại với chủ đề “Bối cảnh lịch sử trước khởi nghĩa Tây Sơn”.
Phòng 2: trưng bày 26 tài liệu, hiện vật với chủ đề “Quê hương và thời niên thiếu của các thủ lĩnh Tây Sơn”.
Phòng 3: trưng bày 78 tư liệu, hiện vật với chủ đề: “Chuẩn bị khởi nghĩa”.
Phòng 4: trưng bày 45 hiện vật và tư liệu với chủ đề “Bước phát triển của phong trào giải phóng phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi”.
Phòng 5: trưng bày 19 tư liệ, hiện vật với chủ đề “Chống phong kiến và thống nhất đất nước”.
Phòng 6 + 7: trưng bày 64 hiện vật và tư liệu chống ngoại xâm bảo vệ nền độc lập.
Phòng 8: trưng bày 139 hiện vật với chủ đề “Xây dựng đất nước”.
Phòng 9: trưng bày 60 hiện vật, tư liệu, đây còn gọi là phòng lưu niệm, phản ánh tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với người anh hùng áo vải Quang Trung.
Nhắc tới Bình Định là nhắc tới làng đất Tây Sơn với những làng võ nổi tiếng của miền Trung với roi Thuận Truyền, quyền An Vinh. Đàn bà con gái ở đây đâu có thua kém gì con trai nam nhi tuấn kiệt qua câu ca bất hủ: “Ai về Bình Định mà coi / Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền”.
NHẠC VÕ TÂY SƠN:
Nhạc võ Tây Sơn gắn liền với lò võ nổi tiếng của người Việt ở Bình Định. Tương truyền loại nhạc này do ba anh em người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đặt ra cho quân khởi nghĩa luyện võ. Với một bộ trống 17 chiếc, người tập võ phải dùng hai tay để đánh 12 chiếc, còn lại 5 chiếc đánh bằng đầu, hai gót chân và hai khuỷu tay. Người tập võ đánh được 17 trống được xem là “võ thuật như thuần”.
Sau khi ba Ngài mất, mỗi dịp tế lễ để tượng niệm những vị anh hùng đã lãnh đạo đánh quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, nhân dân ở quê các Ngài vẫn đánh trống Nhạc võ Tây Sơn gồm 4 bài: Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Quân, Khải Hoàn. Nó đã trở thành một loại nhạc lễ trong di sản nghệ thuật của người Việt Nam .
TỪ VĂN MINH TRỐNG ÐỒNG
Bộ môn văn hóa này, theo dân thoại Bình Ðịnh gọi là “Nhạc Võ Tây Sơn” và theo nhạc pháp gọi là “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”. Ai cũng biết, sắc thái đặc biệt trong nền văn hóa cổ xưa của người Việt nổi bật hơn cả là việc dùng trống. Những cuộc khai quật đã đem đến cho các nhà khảo cổ cái trống đồng mà đặc trưng hơn cả là “trống đồng Ngọc Lũ” là chứng cớ đặc biệt của nền văn minh Việt.
“Tiếng trống từ xưa đến nay đối với dân tộc Việt Nam vẫn là hiệu lệnh để thi hành công việc tập đoàn, để báo hiệu một công việc có quan hệ chung, trống ra quân, trống ngũ liên, trống thu không, trống cầm canh… thường ở đình làng nào cũng có cái trống lớn để báo hiệu, trước khi là một công việc nghệ thuật từ trống chầu đến cầm chầu cho con hát. Vậy dụng ý của trống đồng là đại biểu uy lực của thủ lãnh quần chúng, ban hành mệnh lệnh để rồi trở nên huy hiệu của mệnh lệnh và trở nên thiêng liêng, cho đến thời quốc gia độc lập mới có đền thờ “Ðồng Cổ” như là quốc giáo (1).
Vì vậy, ta có thể nói rằng việc chế tạo và sử dụng trống là sở trường của Văn Hoá Việt Nam, và không có chi là lạ khi ta biết rằng trong thời Tây Sơn (1788-1802) sắc thái đặc biệt nọ của văn hóa dân tộc được anh em Nguyễn Nhạc khai thác đến triệt để, thì nghệ thuật chơi trống cũng đưa đến tuyệt đỉnh
ÐẾN NHẠC VÕ TÂY SƠN
Nhạc khí căn bản của nhạc võ Tây Sơn là một dàn trống do quân Tây Sơn dùng khi thao diễn quân sĩ tại võ trường, khi xuất quân cho khí thế thêm mạnh mẽ, khi thúc quân lướt tới trận mạc cho mau lẹ, khi cần hành quân tiến thối nhịp nhàng, khi hãm thành cho uy thế thêm mãnh liệt, hoặc là khi khải hoàn mà reo mừng thắng trận.
Bộ trống đúng theo kinh điển gồm 12 cái, mỗi cái mang tên một con giáp của thập nhị chi: tí, sửu, dần, mẹo, thìn… và khi học nhạc thì tên các con giáp này cũng là tên các cung bậc do tiếng trống phát ra. Ðường kính mỗi trống lớn, nhỏ khác nhau, da bịt trống thì căng chùng, thẳng cũng khác nhau nên tiếng trống cao thấp khác nhau.
NGHỆ THUẬT ÐÁNH TRỐNG
Khi đánh trống thì nghệ sĩ dùng roi trống (dùi trống), có khi bỏ cả roi trống mà chỉ dùng những ngón tay, dùng bàn tay, dùng nắm tay, dùng cùi chỏ… nghĩa là dùng đủ cả bộ phận của hai tay. Trường hợp dùng roi trống thì cứ mỗi nhịp điệu cử động của ta là ta có thể nghe được bốn âm thanh phát ra: nơi đầu roi trống (1), kéo sang đuôi roi trống (2), hạ cùi chỏ xuống (3), và bật ngửa nắm tay vào mặt trống (4). Cứ như thế mà hai tay của nghệ sĩ nhảy múa trên 12 cái trống khi lơi lả nhẹ nhàng, khi dồn dập gấp rút, khi phấn khởi khoan thai. Chỉ có hai cái tay mà đánh cả một dàn trống 12 cái nên nhạc pháp gọi là “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”.
Tuy nhiên, trong trường hợp mà nghệ sĩ vượt khỏi tầm kinh điển đến bậc siêu thặng thì ngoài 12 cái trống đặt ngay trước mặt để cho hai tay sử dụng theo đúng nhạc pháp Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ, hãy còn đặt thêm 5 cái trống khác ở phía sau: một cái đặt ngang nơi đầu để đầu ngả ngửa húc vào, hai cái đặt ngay hai bên hông cho hai cùi chỏ thúc vào và còn hai cái nữa thì đặt cho vừa tầm hai gót chân để đá hậu vào, vị chi là 17 cái trống. Nghệ sĩ “chơi” nổi 17 cái trống (ông Tám Ngang) thì không còn nữa, mà trước đây chỉ còn có nghệ sĩ chơi được 12 trống mà thôi. Tuy nhiên, khi nghe xem thì vẫn thấy là siêu việt.
Trước khi chơi, nghệ sĩ đi một đường quyền, bái tổ rồi mới bắt đầu đánh trống và các bản nhạc lần lượt nổi lên. Nghệ sĩ, điệu bộ hùng dũng, công lực dồn lên nét mặt, trổ ra hai tay dồn dập bên 12 cái trống xem như một nghệ sĩ đang múa đường quyền bên 12 cái trống kiểu lăng ba vi bộ nên mới gọi là nhạc võ. Nghệ sĩ chơi bộ môn này cần phải biết võ thuật và khiếu thẩm âm để sự biệu diễn tăng thêm phần ngoạn mục.
NGHỆ THUẬT BỊ MAI MỘT
Những năm trước đây, không nghe ai nhắc đến “Nhạc Võ Tây Sơn” là vì một lẽ dễ hiểu. Thói đời thắng được thì là vua mà thua là giặc. Khi nhà Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn Gia Long chiến thắng, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn tru di đến nỗi mộ phần của các Ngài cũng bị quật lên, nghiền xương tán nhỏ làm thuốc súng bắn xuống biển, các tôi trung nhà Tây Sơn đều phải mai danh ẩn tích. Thậm chí đến những cái hay của nhà Tây Sơn cũng phải dấu đi kẻo để lộ cho người khác biết được đi báo thì sẽ bị tù đày. Do đó mà di tích nhà Tây Sơn đều bị phá bỏ hết. Ðồng bào Bình Khê thương nhớ ba Ngài lén lập đền thờ mà bề ngoài cũng phải ngụy trang là miếu thờ thần. Ai có thương nhớ giữ được cái gì hay của Ba Ngài thì để bụng chẳng dám phô trương vì sợ chính quyền nhà Nguyễn mà hay được thì không tránh khỏi hậu quả khốc hại. Nhạc võ Tây Sơn cũng cùng chung cái số phận này.
Tôi cũng xin phép mở một cái dấu ngoặc tại đây để nêu lên một lý do thứ hai (Thi sĩ Quách Tấn cho biết: Ngày xưa, môn võ thuật Bình Ðịnh chia làm 4 bộ môn: côn, quyền, kiếm, cổ (trống) chứ không phải kích.
Về môn Cổ thì võ sinh thường treo lủng lẳng ngay hàng, hàng năm, muời cái trống (loại trống chầu hát bội) để tập võ. Võ sinh sẽ đánh, đá vào cá cái trống ấy. Trống bị sức mạnh đánh, đá sẽ văng ra xa và nhờ dây treo thối ngược lại. Lối tập võ bằng trống này, một là để tạo những cú đánh (đấm), đá mạnh, nặng cân hơn; hai là để tập sự nhanh nhẹn chống đỡ, tránh né. Nếu ai không tinh mắt lẹ tay thì chắc chắn sẽ bị trống thối ngược lại đập cho vỡ mặt, gãy xương.
Lần về sau, dường như con người mỗi ngày một yếu dần nên không còn ai dám tập võ bằng trống nữa mà tập bằng những bao đựng cát hoặc bằng bưởi, bòng… Từ đó, danh từ tập võ bằng trống không còn ai dám nhắc tới vì nhắc tới cũng thêm hổ thẹn với người xưa, dần dà rồi mai một.
Có người bảo Nhạc Võ Tây Sơn là biến thể của lối tập võ bằng trống này. Ðiều đó không lấy gì làm chắc. Nhưng nếu quả vậy thì nhà Tây Sơn thật là kỳ tài đã khéo khai thác từ bộ môn võ thuật chuyển sang bộ môn âm nhạc, rồi lại dùng âm nhạc mà giáo dục võ thuật, gây không khí hào hứng trong quần chúng, kích động lòng hăng say chiến đấu của các chiến sĩ bằng tiếng trống.
Ngày nay, tại Campuchia, người ta cũng dùng trống để tập võ. Trên võ đài Miên mà thiếu tiếng trống thì võ sinh không tài nào biểu diễn được).
NHƯNG CÓ NGƯỜI CÒN GIỮ ÐƯỢC CHÂN TRUYỀN
Nhưng may thay, vận nước đổi dời, khi thực dân bị lật đổ, nhà Nguyễn cũng nhào theo thì chỉ có hai người, một ở Bình Khê (nay là Tây Sơn) và một ở Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, còn giữ được cái chân truyền ấy và xem như quốc bảo. Người ở Bình Khê là ông Tám Ngang, ông là người sử dụng được 17 cái trống, ông đem dạy lại cho ba người: hai đứa con trai ông và một người học trò. Ðứa con trai đầu chết, đứa thứ hai thì năm 1954 ở trong đoàn văn công của tập kết ra Bắc, còn lại người học trò kia là nghệ sĩ Tân Phong (tức Nguyễn Phong). Người ở Tuy Phước tên là ông Bầu Thơm (tức Võ Ðôn) là một ông bầu hát bội và cũng là một nhạc sư về loại nhạc hát bội, ông dạy lại một người học trò đó là nghệ sĩ Mười Thông (tức Hoàng Thông) là một nghệ sĩ hát bội và một roi trống hát bội có hạng.
Hai ông thầy vì tuổi già đã qui tiên còn lại hai người học trò trên kia, tuy không phải bậc siêu đẳng đánh nổi 17 trống, song cũng học được đúng truyền thống của nhạc pháp “Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ”. Trước năm 1975, ở Phù cát có anh Nguyễn Việt cũng tập đánh được 12 trống và ở Bình Khê có hai em bé gái (một em 7 tuồi, và một em 12 tuổi) do đoàn Ca Võ Nhạc Tây Sơn đào tạo cũng tập đánh được 5 trống (ngũ âm) xem rất ngộ.
Riêng Tân Phong, anh là một nghệ sĩ chơi thạo các môn như vẽ vời, ca hát, đờn địch, đắp tượng, chạm trổ, điêu khắc, viết tuồng, đóng kịch… Cái gì anh cũng thảy làm được. Nghe đâu anh cũng đã thất lộc cách đây vài năm. Xin thắp cho anh một nén hương lòng thương tiếc một người bạn tài hoa.
GIÓNG TRỐNG KHẮP NƠI
Trước năm 1975, anh Tân Phong vì mang nặng một tinh thần dân tộc nên anh sẵn sàng muốn truyền lại cho đoàn hậu bối cái quốc túy của văn hóa dân tộc, anh cũng đã thuận lời mời đi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn này nhiều nơi. Tôi còn nhớ:
Ngày 8-11-1967, Hội Văn Hoá Bình Dân Sài Gòn mời anh trình diễn tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ tại Sải Gòn nhân có buổi lễ của cơ quan UNESCO tổ chức tại trường này.
Ngày 11 và 12-1-1968, trình diễn tại rạp Thống Nhất Sài Gòn và sân Tinh Võ Chợ Lớn do ban Quản Trị Ðiện Tây Sơn Bình Khê tổ chức dưới sự giúp đỡ của Hội Ðức Trí Thể Dục SAMIPIC (Société pour l’Amélioration Moral Intellectuelle et Physique des Indochinois de Cochinchine) và đoàn thể Vovinam.
Ngày 16-8-1969, trình diễn tại Trung Tâm Văn Hoá Bình Ðịnh tại Qui Nhơn nhân ngày khánh thành Trung Tâm này có sự chứng kiến của ông Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền, đặc trách Văn Hoá, ông Ðại sứ Ðại Hàn Dân Quốc và rất đông quan khách Việt Hàn Mỹ tham dự.
Ngày 15-3-1970, được phái đoàn điện ảnh Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thu hình và đã trình chiếu trên màn ảnh truyền hình Việt Nam vào đêm 25-4-1970 tại Sài Gòn và tại Cần Thơ, Qui Nhơn, Huế vào các đêm kế tiếp.
Ngày 18-6-1970, được phái đoàn Ðiện ảnh Bộ Thông Tin thu hình làm phim tài liệu và sẽ trình chiếu trên các màn ảnh ciné và truyền hình.
Nghe đâu, sau năm 1975, hai em bé ở Bình Khê mà đoàn Ca Nhạc Võ Tây Sơn đào tạo năm nào nay cũng đã mang trống Tây Sơn đi đánh xứ người, được nhân dân nhiều nước tán thưởng.
Ngoài ra, hàng năm vào ngày mồng 5 Tết tại điện Tây Sơn Bình Khê, tiếng trống kích cảm của môn Nhạc võ Tây Sơn đã vang lên mở đầu cho chương trình tế lễ vua Quang Trung và lễ hội Tết đống Ða, kỷ niệm trận chiến thắng quân Thanh oanh liệt nhất trong lịch sử của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1979.
Ai có dự xem trên phim ảnh các lối đánh trống ở nước ngoài đều phải công nhận rằng nghệ thuật đánh trống của Tây Sơn thật là kỳ ảo.
Trước năm 1975, ban Phổ biến Nhạc Võ Tây Sơn lại còn biểu diễn phối hợp giữa Nhạc võ Tây Sơn và Võ thuật Bình Ðịnh bằng cách khi nhạc võ nổi lên thì các võ sinh nam nữ ở bên ngoài đi những đường quyền, những đường côn, siêu, đao… múa, đá, tọa, nhảy nhịp nhàng theo tiếng trống và đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa xem chẳng khác chi những corps de ballet của Tây phương.
BÀI BẢN NHẠC VÕ
Vì mang danh là nhạc võ nên bài bản phần nhiều cũng mang tính chất quân sự như bài: Khai Trường, Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Thành, Khải Hoàn.
Nhạc võ Tây Sơn, muốn biểu diễn đúng theo truyền thống và xem cho đẹp mắt thì trước hết, đi đầu là bộ phận của chiêng, trống, có quân hầu, lọng che; theo sau là hai toán quân (mặc áo cạp nẹp, chân quấn vòng ve, đầu đội nón dấu, tay cầm đao, kiếm, côn…) rồi đến giàn Nhạc Võ đặt trên một chiếc xe đẩy (Nhạc trưởng đứng giữa, hai bên là bốn nhạc công: đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa); sau rốt là vị tướng chỉ huy lẫm liệt trên mình voi hoặc ngựa.
Bắt đầu biểu diễn, vị tướng kêu gọi:
Ngoài biên thùy quân thù xâm lấn
Trong nội tình đất nước lâm nguy
Phận làm trai sinh tử nẹ chi
Quyết một dạ lên đường cứu quốc!
Nhạc trưởng tiếp theo
Anh em ơi!
(Toàn thể nhạc công) “Dạ”
Lệnh trên đà ban xuống
Phận dưới phải thi hành
Dùng kế mưu kích cổ đa thanh
Ðịch lầm tưởng hùng binh vạn đội
Ðằng trước khởi chinh cổ, giàn nhạc võ nổi lên và lần lượt theo các bài bản do vị tướng chỉ huy.
1.- Bài Khai Trường
Bài Khai Trường chỉ dùng để luyện tập quân sĩ hay chào mừng các vị tướng chỉ huy khi cần đến diễn võ trường. Ðiệu nhạc khoan thai, hùng dũng.Thuở xưa, mỗi dịp có vị Hoàng đế hay vị Nguyên soái đến diễn võ trường để mở một cuộc diễn võ, tập võ hay là chọn tướng sĩ thì khi vị ấy bước vào võ trường, mỗi xứ có một điệu nhạc riêng để chào mừng nhà lãnh đạo. Riêng đối với quân Tây Sơn, điệu nhạc đó là ba hồi trống khai trường. Nhưng mà nhạc hát bội thường chỉ có hai cái trống căn bản gọi là “trống âm” và “trống dương” hay “trống quân” và “trống chiến”. Nếu người ta biết rằng hát bội ngày nay là do cụ Ðào Tấn ở Bình Ðịnh lập thành qui chế, thì phép đánh trống của hát bội cũng đánh nhái theo điệu Khai Trường của Nhạc Võ Tây Sơn.
Trống Khai Trường của hát bội phải đánh đúng ba sách, mỗi sách tám phách. Khi đánh đúng 24 phách, nhạc sĩ mở ra thành trống chiến và chờ cho trống quân gióng giáp ba hồi lại 9 tiếng thì người trống chiến phải thét theo. Khi thét xong, nghĩa là khai trường xong thì nhạc sĩ mở trống ra cho nghệ sĩ ra sân khấu. Lúc đó thì người hát hát thứ gì, nam, khách hay xuân… thì người đánh trống phải đánh theo thứ ấy. Nhưng thường người đánh trống chỉ được quyền đánh khi người nghệ sĩ trên sân khấu đã “thủ” và “vĩ”. Nếu người đánh trống tự ý đánh theo, gọi là đánh nhái.
Nói về bài bản của nhạc hát bội thì có 8 bài kể từ bài nhịp một đến nhịp tám còn âm thanh hay hoặc dở tùy theo người nhạc sĩ bắt già hay non mà thôi.
2.- Bài Xuất Quân
Xuất quân có nghĩa là đem quân đội ra chiến trường, nó có nghĩa là khởi hành và bao giờ khởi hành thì điệu nhạc phải làm sao cho tinh thần chiến sĩ phấn khởi lên, hăng hái lên và cũng phải gây cho được trong lòng mọi người một niềm tin chiến thắng. Do đó, nhạc xuất quân của Nhạc Võ Tây Sơn theo điệu này là một điệu nhạc hùng, nhịp của nó càng nhặt làm cho tim mọi người đập càng lúc càng mau, nghe hăng hái, phấn khởi.
3.- Bài Hành Quân
Ta tưởng tượng một đạo quân hùng hậu đã xuất quân trong tình thần tối cao nhưng mà sau một khúc đường dài chắc hẳn cũng đã thấy mệt mỏi. Trong lúc ấy vị tướng chỉ huy chỉ kêu gọi nầng cao tinh thần suông, chúng ta có cảm tưởng rằng lời kêu gọi ấy không được đáp ứng. Trái lại, nếu lời khuyến khích là một lời êm ái, dịu dàng, có vẻ vui vẻ, có vẻ đùa cợt … thay vì đem lời hùng hồn thì đem lời an ủi êm ái, chắc có lẽ kết quả sẽ hay hơn.
Ðọc truyện Tàu, chúng ta còn nhớ lúc Quản Di Ngô ngồi trong cũi để được đưa về nước Tề thì thấy các quân khiêng cũi hơi mệt mỏi nên Quản Di Ngô bèn đặt ra những bài ca, bài hát để cho quân sĩ đi theo nhịp bài ca mà quên mệt mỏi. Còn trong dã sử của Tây Sơn, người Bình Khê thường thuật lại rằng: Khi quân Tây Sơn đi ra Thăng Long ngày đêm không nghỉ phải hai người võng một người thì tránh sao khỏi cái việc khiêng liên tiếp mười mấy ngày, quân Tây Sơn cũng có thể mệt mỏi, và huyền thoại truyền rằng vua Quang Trung mới bày ra chuyện thi đua kể chuyện tiếu lâm để cho quân sĩ hào hứng quên sự mệt mỏi và, chúng tôi cũng tin rằng không biết chừng dàn trống của Nhạc Võ Tây Sơn lúc ấy lại trổi khúc hành quân nhằm mục đích giống như mục tiêu của việc thi đua kể chuyện tiếu lâm trên kia.
Khúc nhạc này của Nhạc Võ Tây Sơn cũng diễn tả được cái ý nghĩ đó. Khúc nhạc này có đoạn nhạc sĩ chỉ đánh thuần bằng tay không, bằng những ngón tay, bàn tay, nắm tay và cùi chỏ nghe rất vui tai và xem đẹp mắt.
4- Bài Hãm Thành
Bây giờ chúng ta lại tưởng tượng tiếp như đoàn quân Tây Sơn đã đến dưới chân thành và vị tướng chỉ huy đã ra lệnh hãm thành thì phận sự của nhạc sĩ sử dụng giàn trống là phải gây cho chiến sĩ một tinh thần nỗ lực tối đa để công phá thành trì hầu cướp được cho mau lẹ. Ðiệu nhạc này nghe thật là sôi nổi, dồn dập, kích động tối đa lòng dũng cảm của mọi người.
5.- Bài Khải Hoàn
Và sau cùng là bài Khải Hoàn. Ðiệu nhạc này dĩ nhiên âm thanh phải diễn đạt cho được sự vui mừng, phấn khởi, hò reo của kẻ chiến thắng.
Ai đã có nghe xem Nhạc Võ Tây Sơn sẽ nhận rõ điều đó. Tôi nói nghe và xem vì Nhạc Võ Tây Sơn xem đã đẹp mắt mà nghe cũng vui tai. Ðiệu bộ và âm thanh hòa nhịp khi khoan, khi nhặt, khi bổng, khi trầm, khi lơi lả, lúc dồn dập thật là khó tả.
NGUYỄN HUỆ:
Anh hùng dân tộc, có tên là Quang Bình, Văn Huệ, nhân dân Bình Định đương thời gọi ông là “Ông Bình” hay “Đức ông Tám” (ông là con thứ bảy trong gia đình gồm bảy anh em).
Nguyên thân phụ ông họ Hồ sau đổi ra họ Nguyễn, người gốc Hưng Nguyên, Nghệ An, gia đình bị bắt đưa vào ấp Tây Sơn Thượng thuộc phường Quy Ninh, Bình Định (nay thuộc Tây Sơn, Bình Định). Gia đình ông có bảy anh em gồm 4 gái 3 trai, ông là con út.
Thuở nhỏ ông theo học với Giáo Hiến, tính ông thông minh, chăm học nên được thầy yêu mến, truyền dạy cho cả văn lẫn võ.
Năm 1771, anh em ông lập đồn trại ở vùng núi trong vùng, chiêu tập nghĩa quân chống lại triều đình phong kiến của chúa Nguyễn do quyền thần Trương Phúc Loan tác quái. Anh em ông thường lấy của cải nhà giàu phân phát cho nhân dân nghèo khổ. Lực lượng nghĩa quân từ đó ngày càng trở nên mạnh và có thực lực hơn, chiếm phủ thành Quy Nhơn, rồi tiến ra chiếm Quảng Ngãi.
Năm 1776, ông cầm quân vào đánh Bình Thuận tiêu diệt đạo quân của chúa Nguyễn đang tá túc ở khu vực này. Tiếp đó cùng Nguyễn Lữ vào Bình Định đất Gia Định.
Năm 1782, ông và Nguyễn Nhạc vào Nam đánh Nguyễn Ánh, Ánh thua phải bỏ thành Sài Gòn chạy ra đảo Phú Quốc, tháng 6/1783, ông đem quân ra vây Phú Quốc, gia đình Nguyễn Ánh phải chạy ra Côn Đảo, cuối cùng chạy sang Xiêm (Thái Lan) cầu viện. Chiến thắng xong ông lui về Qui Nhơn.
Cuối năm 1784, Nguyễn Ánh đem quân Xiêm về đánh chiếm Sa Đéc. Tướng giữ thành Gia Định là Trương Văn Đa (con rể Nguyễn Nhạc) thấy quân Xiêm sang đánh phá bèn phái người về Qui Nhơn phi báo, Nguyễn Huệ lập tức đem quân vào tiếp cứu.
Khi vào đến Gia Định, ông bố trí một trận địa phục kích trên địa phận Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút (ngày 18/1/1785) gần Mỹ Tho (nay thuộc Tiền Giang) rồi lùa quân Xiêm lọt vào trận địa, ông đánh một trận quyết liệt tiêu diệt hơn 20 ngàn quân Xiêm. Quân xâm lược chỉ còn sống sót vài nghìn người theo đường bộ và đường thủy chạy về nước. Nguyễn Anh cùng đồng bọn cũng chạy theo quân Xiêm sang tá túc ở ngoại thành Băng Cốc. Diệt xong quân xâm lược ông đem quân về Qui Nhơn để Đô đốc Đặng Văn Trấn ở lại trông coi đất Gia Định.
Năm sau, Nguyễn Nhạc cử ông làm Tiết chế cùng Vũ Văn Nhậm đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa. Chỉ trong mấy ngày, ông chiếm được cả khu vực từ Thuận Hóa ra đến sông Gianh, tiêu diệt toàn bộ cánh quân phía Nam của chúa Trịnh. Kể từ năm 1786, từ Quảng Bình trở vào đều thuộc nhà Tây Sơn.
Lấy được Thuận Hóa, ông cùng Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân ra Bắc diệt họ Trịnh và cũng chỉ trong mấy ngày, nghĩa quân Tây Sơn đã bình định xong đất Bắc, diệt nốt họ Trịnh cũng năm 1786 này.
Sau khi chiếm Thăng Long, ông nêu khẩu hiệu “Phù Lê diệt Trịnh” được vua Lê Hiển Tông tiếp ở đền Vạn Thọ và phong ông làm Nguyên súy uy Quốc Công, gả công chúa Ngọc Hân cho. Xong đâu đó ông rút quân về Nam.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, ông được phong làm Phụ chánh, Bắc Bình vương đóng quân ở Thuận Hóa.
Năm 1788, vua Chiêu Thống dẫn quân Thanh về cướp nước ta, ông lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung (nên cũng gọi là vua Quang Trung) rồi đem quân ra Bắc dẹp giặc xâm lăng.
Lúc được tin quân Tôn Si Nghị kéo sang chiếm miền Bắc, ngày 25/11/1788, ông dẫn 10 vạn quân ra Bắc, bảo với quân sĩ rằng: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nở thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải dùng Ngô Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được phú cường rời, thì ta không cần phải sợ chúng nữa”. Rồi ông cho quân sĩ ăn Tết Nguyên đán trước, sau đó thẳng đường ra Thăng Long và chỉ mấy ngày thần tốc đã tiêu diệt toàn bộ lực lượng hùng hậu do Tôn Si Nghị cầm đầu. Thái thú Sầm Nghi Đống đóng quân ở Đống Đá quá khiếp sợ thắt cổ chết. Tôn Si Nghị hoảng sợ không kịp mặc áo giáp, bỏ chạy về nước, quân Thanh tranh nhau qua cầu phao, cầu sập, lính chết, thây đầy sông Nhị.
Ngày mùng 5 Tết ông và nghĩa quân vào thành Thăng Long mình còn vương thuốc súng, được nhân dân đón tiếp tưng bừng. Sau đó ông được vua Thanh sai sứ sang nước ta phong ông làm An Nam quốc vương và mời ông sang Yên Kinh yết kiến vua Thanh.
Năm sau, ông chọn Phạm Công Trị trá làm Quốc vương (Quang Trung) cùng Ngô Văn Sở, Đặng Văn Trấn, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn… sang Trung Quốc yết kiến vua Càn Long, được vua Càn Long hết lời ca ngợi. Trong những năm làm vua, ông đã ban hành nhiều chính sách tiến bộ trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục.
Ông có hai hoàng hậu: một là bà Phạm Thị (mẹ vua Cảnh Thịnh), sau khi bà mất được truy tặng là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ Chính Hoàng Hậu và bà Lê Ngọc Hân được phong là Như Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Với bà Phạm Thị có ba trai (Quang Trân, Quang Bàn, Quang Chiêu) và hai gái. Một trong hai con gái gả cho Phò mã Nguyễn Văn Trị. Với bà Ngọc Hân ông có hai con, sau bị Gia Long thảm sát ở Huế.
Năm 1792 ông mất, làm vua được 4 năm, hưởng dương 39 tuổi, miếu hiệu là Thái Võ Hoàng đế. Ông là một vị anh hùng lỗi lạc, một nhà chính trị quân sự kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Các sử gia triều Nguyễn cũng phải công nhận: “Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuộng, mắt sáng như điện, giảo kiệt, thiện chiến, ai cũng phải sợ”, đến một cung nhân trong cung vua Lê cũng thốt thành lời “Nguyễn Văn Huệ là bậc anh hùng lão thù, hung tợn, và giỏi cầm quân. Coi ông ta cầm quân vào Nam ra Bắc thật là thần xuất quỉ nhập, không ai có thể dò biết được, ông bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lịnh của ông ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn sấm sét”.
Đương thời hầu hết các danh sĩ đại thần (kể cả kẻ thù) đều ngưỡng mộ xem ông là “Bậc anh hùng” bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy đều dốc lòng vâng mệnh.
Thật vậy, ông “một người rất thông minh, hay dùng trí thuật lao lung người khác, trong lúc bàn luận, khi xuống lại năng lên, người ta không biết đằng nào mà dò”.
(Nguồn: saigontoserco.com)
Ý kiến của bạn
Non nước Việt Nam
Doanh nghiệp Du Lịch