Bảo tàng & Điểm đến khác
Bảo Tàng Hùng Vương
Bảo Tàng Hùng Vương Phú Thọ: Nhà bảo tàng Hùng Vương hai tầng, cao trên ba chục mét, hình vuông. Nhìn từ xa nhà bảo tàng giống như một khối hộp lập phương, cao vút nằm trên đỉnh một quả đồi ngay sát đền chính. Bảo tàng Hùng Vương là một ngôi nhà có hình thức đậm chắc mà trang nhã, bề thế mà lại rất thanh thoát, bắt đầu được khai móng năm 1986, với tổng số vốn đầu tư trển tỷ đồng, các nhà xây dựng đã cấu thành một ngôi nhà hoàn hảo hiện đại mà dân tộc. Hiện đại ở sự bề thế của quy mô xây dựng, tường ốp đá xẻ bao quanh với diện tích mặt bằng gần 1.000m2. Còn dân tộc vì đây là một chiếc nhà sàn, bốn bề có cột chống trụ. Đứng từ đỉnh núi Hùng nhìn xuống, nhà bảo tàng Hùng Vương như một chiếc bánh chưng vuông khổng lồ. Sự khổng lồ ấy được các nhà thiết kế giải thích dó là biểu hiện tượng trưng của quả đất theo quan niệm người xưa: Đất vuông trời tròn. Ở giữa nhà Bảo Tàng là một vùng trần thủng có khoảng trời nghiêng xuống lồng trong một khuôn trăng đầy đặn. Tổng thể sự hiện diện trời tròn đất vuông ấy là ý tưởng của người kiến trúc sư muốn khắc hoạ lại huyền thoại lịch sử: sự tích bánh dày, bánh chưng, mà ở đây, huyền thoại ấy chắc rằng mỗi người chúng ta nếu không thuộc lòng thí chí ít cũng đã một lần được nghe bà kể chuyện về hoàng tử Lang Liêu làm bánh dày, bánh chưng dâng tiến vua cha.
Câu chuyện cổ tích ấy đã phần nào nói lên được quan niệm vũ trụ của con người Việt Nam cổ đại, đồng thời còn nói lên được quan niệm vuông tròn trong tiềm thức, trong ước lệ, đó còn là triết lý nhân văn, triết lý toàn vẹn của con người Việt Nam. Sức người bằng sức lao động sáng tạo, lộc trời bằng hạt gạo, hoa đất bằng hương vị cây lá thiên nhiên đã cấu thành sản phẩm vật chất duy trì sự sinh tồn của đất nước qua nhiều thế hệ.
Nhà bảo tàng Hùng Vương được khánh thành đúng trong ngày khai hội Đền Hùng năm 1993. Nó tầm cỡ không chỉ vì đó là một trong ba bảo tàng Quốc Gia được người đứng đầu Đảng và Nhà Nước cắn rốn khai sinh:
- Bảo tàng cách mạng Việt Nam: thủ tướng Phạm Văn Đồng cắt băng khánh thành năm 1959.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh: chủ tịch HĐBT Đỗ Mười cắt băng khánh thành năm 1990.
- Bảo tàng Hùng Vương: tổng bí thư Đỗ Mười cắt băng khánh thành năm 1993.
Sự tầm cỡ ở đây chính là nội dung khoa học- tiếng nói của những hiện vật lịch sử đang chứa đựng trong lòng nó.
Với hơn 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 3.000 hiện vật có trong kho bảo tàng, 162 bức ảnh, 5 bức tranh sơn mài, 9 bức gò đồng 5 hộp bình, 1 nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng bày đã khắc hoạ chủ đề tổng quát: từ văn minh nông nghiệp các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử (BAO gồm Vĩnh Phú và 1 phần Hà Tây, Hà Nội ngày nay).
Thăm quan bảo tàng Hùng Vương dù khách có là người du lịch hay là nhà nghiên cứu hoặc là người dân lao động bình thường, ai ai cũng đều cảm nhận được trước sự biến thiên vĩ đại của lịch sử dân tộc ta từ buổi bình minh, cuộc sống còn mông muội đã làm nên một vua Hùng và một nước Văn Lang.
Phần trưng bày của bảo tàng Hùng Vương được tập trung vào 3 chủ đề chính:
- Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương hiện tìm được trên đất Vĩnh Phú.
- Giới thiệu việc hình thành khu di tích Đền Hùng và ý thức xây dựng khu di tích Đền Hùng của nhân dân cả nước.
- Tình cảm của nhân dân, sự quan tâm cả các chế độ trước, đến Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng ngày nay đối với Đền Hùng.
Ý đồ nổi bật trong trưng bày bảo tàng Hùng Vương về nội dung và giải pháp kỹ thuật, mỹ thuật là việc giải quyết đề tài trưng bày mối quan hệ hữu cơ giữa văn hoá Hùng Vương, văn minh sông Hồng với lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam.
Mục đích của ý đồ trưng bày nhằm làm rõ tầm quan trọng của khu di tích lịch sử Đền Hùng, Bộ Văn Lang và địa thế dựng nước của các Vua Hùng.
Trưng bày bảo tàng Hùng Vương đã cố gắng đảm bảo sự tuân thủ những nguyên tắc của phương pháp luận sử học Mác Xít và nguyên tắc bảo tàng học, trên đài trưng bày có 5 trọng tâm- 5 mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hình thành con người Việt Nam, 5 trọng tâm ấy được nhân dân ở 5 vị trí trang trọng:
- Đất nước, con người một thời nguyên thuỷ
- Bắt đầu dựng nước.
- Sự nghiệp xây dựng nước Văn Lang của các Vua Hùng
- Khu di tích Đền Hùng và việc thờ cúng Vua Hùng trên thềm đất cổ Phong Châu
- Tình cảm của nhân dân, sự quan tâm của các chế độ trước đến Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng ngày nay với Đền Hùng.
Dọc theo 5 trọng tâm có 5 điểm phim tài liệu, khoa học phù trợ với nội dung lịch sử: Giỗ Tổ Hùng Vương, Vua Hùng dạy nhân dân cấy lúa, lễ hội Làng He, trò Trám và sự tích rước lúa thần, hát xoan và sự tích làm bánh chưng bánh dày, Vua Hùng đi săn.
Trưng bày Bảo Tàng Hùng Vương hướng tới chiều sâu. Tìm về cuội nguồn. Mục đích của giải pháp này nhằm làm rõ giai đoạn văn hoá Hùng Vương và thời đại Hùng Vương dựng nước.
Phòng 1: giới thiệu chung nội dung trọng tâm thứ nhất:
Đất nước, con người một thời nguyên thuỷ. Với số lượng hiện vật gồm 1 sa bàn, 1 hộp hình, 2 bức tranh sơn mãi cỡ lớn, 18 mẫu động thực vật, 12 mẫu khoáng sản, 20 công cụ đá Sơn Vi và một số ảnh chụp cùng những hiện vật khác đã khái lược hình thế thiên nhiên và sức sống buổi bình minh lịch sử của con người Việt Nam. Một vùng đất hợp lưu nơi ngã ba sông Hồng, Đà, Lô giàu đẹp và thuận lợi từ hàng vạn năm xa xưa đã trở thành môi trường tụ cư sinh sống cho các loại động, thực vật và cho con người. Lớp trầm tích tìm được và hộp hình cùng những ảnh chụp hang Ngựa (Thu Cúc- Thanh Sơn) là di chỉ xa xưa đầu tiên có dấu vết cư trú của con người cách nay trên 4 vạn năm. Dấu vết hoá thạch của các xương lợn rừng, hươu nai là dấu vết minh chứng cho sự vận động của con người chinh phục thiên nhiên để duy trì sự sinh tồn ở thời kỳ xa xưa ấy.
Trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội, con người Việt Nam thời thượng cổ đã trải qua 5 giai đoạn văn hoá: Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, 5 giai đoạn phát triển văn hoá là 5 bước tiến dài vạn dặm trong lịch sử phát triển của dân tộc. Hơn 100 địa điểm văn hoá Sơn Vi có độ tuổi từ 1 vạn rưỡi đến 2 vạn năm với những công cụ cuộc ghè đập là chứng tích sinh tồn của người nguyên thuỷ trên đất Vĩnh Phú- Văn Lang, đất bản bộ của các Vua Hùng.
Phòng 2: Bắt đầu thời dựng nước
Bằng những hiện vật gốc có chọn lựa phong phú từ ba nền văn hoá: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun… có nhiều tài liệu khoa học phụ mô tả từng mảng cuộc sống sinh hoạt của con người vận động hợp quy luật biến thiên của lịch sử. Công cụ đá mài từ giản đơn đến phức tạp, từ thô ráp đến tinh xảo: rìu có vai, rìu mài tứ diện, cuốc đá, chày nghiền, đồ trang sức (vòng tay đá, khuyên đá…) vô cùng phong phú bên cạnh những sưu tập gốm đa dạng: nồi, vò, bình gốm, bát gốm, dọc xe chỉ, chài lưới… được trưng bày nhằm giới thiệu cho người xem thấy được nghề sống chính của cư dân nguyên thuỷ nước ta là làm nông nghiệp, trồng lúa nước, săn bắt và hái lượm. Qua từng bước biến thiên của lịch sử, con người từ chỗ sống bằng săn bắt, hái lượm đã biết đấu tranh cải tạo thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cuộc sống con người. Nền kinh tế nông nghiệp một ngày phát triển. Cuộc sống con người dần no đủ, có tích luỹ của cải, có sự phân chia người nghèo, kẻ giàu có sự hình thành giai cấp. Những Nha chương bằng đá tìm được ở Gia Thanh, Thanh Đình(Phong Châu) là vật chứng điển hình chứng minh cho sự hình thành các tộc người, sự tập trung uy quyền vào người đứng đầu bộ tộc. Khi công cụ bằng đồng xuất hiện, những mùi cày đồng (Vạn Thắng), lưỡi liền đồng (Gò De), lưỡi rìu đồng (Làng Cả) được ra đời và ngày càng đa dạng, phong phú. Đó là dấu tích chứng minh cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp buổi ban đầu.
Những mũi lao, mũi tên đồng, lưỡi câu đồng là vật chứng không chỉ chứng minh cho sự phát triển trí tuệ và khả năng chinh phục thiên nhiên phục vụ cuộc sống con người. Đó còn là dấu hiệu khả năng tự vệ của con người trong sự đấu tranh giai cấp, đấu tranh sinh tồn giữa các tộc người trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp.
Dấu tích sự ra đời của hạt lúa đã đánh dấu bước tiến dài trong lịch sử kinh tế nông nghiệp. Đó là hiện vật gốc chứng minh cho thành tựu lớn lao của con người chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cuộc sống con người.
Phòng 3: Sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các Vua Hùng
Hàng năm hiện vật được trưng bày để nêu bật chủ đề văn hoá Đông Sơn — văn hoá Hùng Vương, song đáng chú ý gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người xem là bộ sưu tập trống đồng (10 chiếc) được phát triển rải rác trên thềm đất Phong Châu. Tiêu biểu hơn cả là chiếc trống đồng Đền Hùng. Chiếc trống này được phát hiện tại làng Cổ Tích cách chân núi Hùng khoảng 500m. Cho tới nay trống đồng Đền Hùng được các nhà khoa học xếp vào các loại đứng đầu hàng dọc trong hệ thống trống loại 1 Hê gơ tìm thấy ở Việt Nam. So với trống đồng Đền Hùng kiểu dáng và cách thức trang trí tương đồng song có kích thước và dáng vẻ bề thế hơn và điều quan trọng là nó được tìm thấy ngay tại chân núi Hùng.
Bên cạnh trống đồng Đền Hùng là trống đồng Tân Long. Đây là một trong những chiếc trống có đường kính lớn nhất so với toàn bộ trống đồng tìm thấy ở Việt Nam (trống đồng có đường kính mặt 108 cm).
Bộ hiện vật điển hình thứ 2 là sưu tập vũ khí bằng đồng, lưỡi cày đồng, thuổng đồng, rìu đồng, dao găm đồng, mũi tên đồng, lao đồng…đa dạng và phong phú. Đó là dấu hiệu phản ánh giai đoạn văn hoá Đông Sơn phát triển rực rỡ, có sự phân diện rộng rãi từ biên giới phía bắc tới các tỉnh miền trung nước ta bây giờ. Công cụ đồng xuất hiện ngày càng đa dạng, phong phú và điêu luyện, cục diện kinh tế ngày càng phát triển đã đưa trình độ xã hội phát triển cao hơn. Các thủ lĩnh họ Hùng với cương vị đứng đầu bộ lạc văn lang từ nền tảng kinh tế lạc hậu thời kỳ đá mới qua giai đoạn sơ kỳ đồng thau đã vượt lên mở rộng địa bàn, đẩy mạnh sự phát triển văn minh và xã hội tới bước phát triển cực thịnh trong gia đoạn văn hoá công cụ đồng thau — sắt sớm. Từ sự liên minh bộ lạc đến sự áp phục 15 bộ lạc gần xa để trở thành thủ lĩnh liên minh bộ lạc rồi quân chủ quốc gia: Hùng Vương ở thiên niên kỷ 11 trước công nguyên. Bộ Văn Lang của các thủ lĩnh họ Hùng đã trở thành địa bàn gốc của nước Văn Lang. Một nhà nước xã hội kiểu “ phương thức sản xuất Châu A” ra đời, nhà nước đầu tiên của xã hội Việt Nam. Đó là thành tựu, là công lao vĩ đại không gì sánh nổi của các vua Hùng. Nền văn hoá mang sắc thái riêng và cốt cách riêng của dân tộc bắt đầu được hình thành và phát triển. Một giai đoạnh lịch sử, một thời đại mới ra đời: Thời đại xây dựng đất nước của các vua Hùng.
Phòng 4 và 5: giới thiệu khi di tích lịch sử Đền Hùng, vịêc thờ cúng vua Hùng trên thềm đất cổ Phong Châu, tình cảm của nhân dân, sự quan tâm của các chế độ xã hội tới Đền Hùng.
Cho tới nay qua kiểm kê di tích lịch sử văn hoá, trên đất Vĩnh Phú có 587 nơi thờ Hùng Vương, vợ con và tướng lĩnh các vua Hùng. Bên cạnh những dấu tích vật chất còn có những trang huyền thoại kỳ diệu phản ánh sự hào hùng, sự bay bổng kỳ diệu của những nhân thần, người anh hùng dân tộc đã có công dựng nước và bảo vệ đất nước.
Các ngôi đình làng: Hùng Lô, Đào Xá, Hương Nộn, Lâu Thượng, Cổ Tích…là những công trình kiến trúc hoàn hảo ở mọi góc độ được nhân dân lập nên để thờ cúng vua Hùng nhưng đó lại là di tích quan trọng vào bậc nhất. Ơ đó di tích không chỉ mang tính tưởng niệm trong các ngôi đền do dân đời sau lập nên mà ở đây dấu tích lưu niệm của các vua Hùng vẫn còn phảng phất trong những pho huyền thoại lịch sử.
Bộ hiện vật tiêu biểu của phòng 4 và 5 là bộ sưu tập ảnh lễ hội Đền Hùng trong thế kỷ XX và đặc biệt tiêu biểu hơn cả là bộ ảnh lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Đền Hùng năm 1954 với sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Danh nhân Văn hoá Thế giới đã căn dặn: “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” với 61 tài liệu khoa học của các học giả, các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về Đền Hùng và thời đại Hùng Vương được trưng bày cùng với hơn 100 hiện vật do đồng bào Việt Nam khắp mọi miền thờ cúng vua Hùng đã nêu bật chủ đề: Tình cảm và trách nhiệm của nhân dân với Đền Hùng và các vua Hùng đã có công dựng nước.
Còn nhiều nữa hình ảnh các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước thăm viếng Đền Hùng xem xét quy hoạch tổng thể di tích Đền Hùng xây dựng nhà bảo tàng Hùng Vương…. Bên cạnh một số hình ảnh các đoàn khách quốc tế thăm Đền Hùng đều phản ánh tấm lòng của dân tộc và bè bạn với Tổ tiên dân tộc Việt Nam.
Trong nhà bảo tàng còn có 1 phòng chiếu video với sức chứa trên 50 người xem một lượt các bộ phim về lễ hội Đền Hùng xưa, nay, phim về một số tích trò dân gian theo thuyền thoại, lịch sử được chiếu phục vụ khách tham quan. Đó là những tài liệu hình ảnh sống động mô phỏng sự tích lịch sử đã cung cấp cho người xem nhiều tư liệu khoa học và một số lượng thông tin lớn về lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam, xã hội Việt Nam, văn hoá Việt Nam thời vua Hùng dựng nước.
Nhà bảo tàng Hùng Vương ra đời đã phần nào đáp ứng lòng mong đợi của đồng bào cả nước, của người Việt Nam sống xa Tổ quốc, của các nhà khoa học và của bè bạn Quốc tế. Thăm viếng Đền Hùng và tham quan nhà bảo tàng Hùng Vương người Việt Nam có được một dịp ôn lại truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, hiểu sâu sắc hơn về thời đại các vua Hùng dựng nước và tấm lòng toàn dân tộc với Đền Hùng. Còn đối với khách Quốc tế thăm Đền Hùng và bảo tàng Hùng Vương sẽ có dịp hiểu được ngọn nguồn dân tộc Việt Nam, văn hoá Việt Nam, truyền thống Việt Nam và đạo lý của con người Việt Nam.
Nhìn tổng thể nội dung và ý đồ trưng bày bảo tàng Hùng Vương là hướng người xem vào chiều sâu tư tưởng, nhận được dung mạo con người Việt Nam: Quá khứ — Hiện tại — Tương lai. Mặt khác nội dung trưng bày bảo tàng Hùng Vương phản ánh được mối quan hệ giữa vua Hùng — Đền Hùng và thời đại Hùng Vương dựng nước.
Bảo tàng Hùng Vương đã trở thành di sản văn hoá mọi thời đại. Đó là một thiết chế văn hoá quan trọng của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tưởng niệm công lao của các vua Hùng đã có công dựng nước.
Phú Thọ là nơi có các đình, đền, miếu để thờ các vua Hùng và các tướng lĩnh của vua Hùng nhiều nhất Việt Nam. Cho nên, lễ hội quan trọng và đáng kể nhất nơi đây phải nói đến đó là lễ hội giỗ tổ Hùng Vương- lễ hội đã được nhà nước công nhận là Quốc Lễ.
Toàn tỉnh có 700 điểm thờ, tập trung nhiều nhất ở Lâm Thao, huyện Tam Nông, thành phố Việt Trì, huyện Phù Ninh, huyện Thanh Thủy, huyện Cẩm Khê. Các đền thờ này chủ yếu thờ các bài vị sắc phong của các vua Hùng và tướng lĩnh.
Khu du lịch Bạch Hạc - Bến Cát
Phường Bạch Hạc, phường Bến Gót nằm ở phía Nam thành phố Việt Trì, cửa ngõ nối liền giữa Phú Thọ và các tỉnh miền núi phía Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Ngã ba Hạc từ lâu đã nổi tiếng bởi vùng sông nước hữu tình, nơi tụ nhân, tụ thuỷ, tụ khí, buôn bán kinh doanh sầm uất. Trên mảnh đất này còn tồn tại nhiều di tích lịch sử văn hoá, gắn liền với vùng "địa linh, hào khí", bên cạnh đó là những sự tích từ thời vua Hùng dựng nước Văn Lang. Cho đến ngày nay, vùng ngã ba Hạc vẫn còn tồn tại nhiều di tích lịch sử văn hoá có giá trị, có thể phát triển nhiều loại hình du lịch như thể thao, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí....
Ngã ba Hạc hợp lưu bởi sông Thao, sông Đà, sông Lô, tạo nên dòng trong, dòng đục, nước sông rộng mênh mông như biển cả, xa xa tả có Tam Đảo, hữu có Ba Vì, hai bên bờ là các làng mạc, ruộng vườn tươi tốt, bến sông thuyền bè tấp nập vào ra.... tất cả những phong cảnh đó đã tạo cho ngã ba Hạc có cảnh trí vừa thơ mộng, vừa hữu tình. Bạch Hạc - Bến Gót ngày nay thuộc phủ Tam Đới xưa, còn tồn tại rất nhiều di tích lịch sử văn hoá, các truyền thuyết, chuyện kể về quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta như: “Hoa Long Thiền Tự” xưa ở bến sông Thông, cạnh chùa có một tảng đá ven sông, trên mặt còn hằn vết gót chân. Tương truyền, đây là nơi Lạc Long Quân lập đàn tế trời và đã được tiên ông từ trên trời xuống, ngồi trên tảng đá này, đặt tên, phân định anh em cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra, sau nơi đây buôn bán kinh doanh sầm uất, trên bến dưới thuyền mới có tên là Bến Gót, Đình Bạch Hạc còn có tên là đình thôn Việt Trì là nơi thờ các vua Hùng, Đền Lang Đài là nơi hai chàng Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đấu võ, Miếu Hà Thần là nơi thờ thần Sông đã có công giúp vua Trần Minh Tông đánh Man Đà Giang dẹp yên bờ cõi, Đền Bạch Hạc là nơi thờ thổ lệnh có tên huý là Trần Lan và em là Thạch Khanh tên huý là Trần Bảo có phép thuật thần y, chữa được bách bệnh cho nhân dân, sau hoá thần ở Tam Thanh Quán bên bờ sông Bạch Hạc, được phong làm thần thiêng ở ngã ba sông Hạc..... Ngoài ra trên mảnh đất này còn tồn tại rất nhiều sự tích ly kỳ, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc như: Hội bơi chải, Hội giã bánh dầy,... nói lên sự hình thành tên làng, tên xóm, tên sông, những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của của nhân dân ta gắn liền với nền văn minh sông Hồng và nền văn minh lúa nước.
Với diện tích 100 ha, khu Du lịch Bến Gót được chia thành 2 phần ở bờ Bắc và bờ Nam sông Lô, trong đó phần lãnh thổ phía Bắc (thuộc phường Bến Gót) là chủ yếu. Khu du lịch có đặc trưng điển hình của vùng trung du Bắc Bộ, với địa hình nhấp nhô, phần đất phía Bắc có vị thế như một bán đảo quay về hướng Đông Nam, tạo nên hình ảnh về bến nước, dòng sông. Đặc biệt là sự gắn kết hài hoà giữa đồi núi, cây cối, sông nước tạo nên phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, thích hợp để xây dựng khu du lịch nghỉ ngơi, thư giãn, vọng cảnh. Khu du lịch Bến Gót bao gồm những thành phần chủ yếu như: vui chơi giải trí, thể thao, nhà vườn, cắm trại, khách sạn, nhà nghỉ, câu cá, trại sáng tác, lầu bình thơ,... được tổ chức tạo thành trục chủ đạo đi từ cổng chính đến khu lầu tưởng niệm và vọng cảnh phía bờ sông, kết thúc là Lầu Bạch Hạc. Lầu Bạch Hạc được xây dựng theo hướng vươn cao vừa tượng trưng cho đàn tế trời vừa là nơi du khách có thể ngắm cảnh xa xa, dưới tầng lầu có bia tưởng niệm 100 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ, giúp cho du khách hiểu rõ hơn nguồn gốc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh Lầu Bạch Hạc được tái dựng tảng đá lưu vết chân và hình dáng tiên ông phân định ngôi thứ, mở đầu cho sự hưng thịnh, đoàn kết, thương yêu, đùm bọc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Phần đất phía Nam chủ yếu dành cho các di tích lịch sử và thể thao nước truyền thống, một phần dành cho các nhà nghỉ nhỏ dưới dạng vườn nông thôn, vườn sinh thái,... Việc phân khu chức năng trên cơ sở địa hình của khu vực quy hoạch và các di tích lịch sử, truyền thuyết sẵn có của khu vực, tạo nên hệ thống không gian sinh động, gây ấn tượng mạnh mẽ, có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch.
- Bảo tàng Hồ Chí Minh: chủ tịch HĐBT Đỗ Mười cắt băng khánh thành năm 1990.
- Bảo tàng Hùng Vương: tổng bí thư Đỗ Mười cắt băng khánh thành năm 1993.
Sự tầm cỡ ở đây chính là nội dung khoa học- tiếng nói của những hiện vật lịch sử đang chứa đựng trong lòng nó.
Với hơn 700 hiện vật gốc trên tổng số hơn 3.000 hiện vật có trong kho bảo tàng, 162 bức ảnh, 5 bức tranh sơn mài, 9 bức gò đồng 5 hộp bình, 1 nhóm tượng lớn và nhiều hiện vật khác được trưng bày đã khắc hoạ chủ đề tổng quát: từ văn minh nông nghiệp các Vua Hùng dựng nước Văn Lang trên mảnh đất Phong Châu lịch sử (BAO gồm Vĩnh Phú và 1 phần Hà Tây, Hà Nội ngày nay).
Thăm quan bảo tàng Hùng Vương dù khách có là người du lịch hay là nhà nghiên cứu hoặc là người dân lao động bình thường, ai ai cũng đều cảm nhận được trước sự biến thiên vĩ đại của lịch sử dân tộc ta từ buổi bình minh, cuộc sống còn mông muội đã làm nên một vua Hùng và một nước Văn Lang.
Phần trưng bày của bảo tàng Hùng Vương được tập trung vào 3 chủ đề chính:
- Giới thiệu giai đoạn văn hoá Hùng Vương bằng các hiện vật liên quan đến thời đại Hùng Vương hiện tìm được trên đất Vĩnh Phú.
- Giới thiệu việc hình thành khu di tích Đền Hùng và ý thức xây dựng khu di tích Đền Hùng của nhân dân cả nước.
- Tình cảm của nhân dân, sự quan tâm cả các chế độ trước, đến Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng ngày nay đối với Đền Hùng.
Ý đồ nổi bật trong trưng bày bảo tàng Hùng Vương về nội dung và giải pháp kỹ thuật, mỹ thuật là việc giải quyết đề tài trưng bày mối quan hệ hữu cơ giữa văn hoá Hùng Vương, văn minh sông Hồng với lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam.
Mục đích của ý đồ trưng bày nhằm làm rõ tầm quan trọng của khu di tích lịch sử Đền Hùng, Bộ Văn Lang và địa thế dựng nước của các Vua Hùng.
Trưng bày bảo tàng Hùng Vương đã cố gắng đảm bảo sự tuân thủ những nguyên tắc của phương pháp luận sử học Mác Xít và nguyên tắc bảo tàng học, trên đài trưng bày có 5 trọng tâm- 5 mốc lịch sử quan trọng trong quá trình hình thành con người Việt Nam, 5 trọng tâm ấy được nhân dân ở 5 vị trí trang trọng:
- Đất nước, con người một thời nguyên thuỷ
- Bắt đầu dựng nước.
- Sự nghiệp xây dựng nước Văn Lang của các Vua Hùng
- Khu di tích Đền Hùng và việc thờ cúng Vua Hùng trên thềm đất cổ Phong Châu
- Tình cảm của nhân dân, sự quan tâm của các chế độ trước đến Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng ngày nay với Đền Hùng.
Dọc theo 5 trọng tâm có 5 điểm phim tài liệu, khoa học phù trợ với nội dung lịch sử: Giỗ Tổ Hùng Vương, Vua Hùng dạy nhân dân cấy lúa, lễ hội Làng He, trò Trám và sự tích rước lúa thần, hát xoan và sự tích làm bánh chưng bánh dày, Vua Hùng đi săn.
Trưng bày Bảo Tàng Hùng Vương hướng tới chiều sâu. Tìm về cuội nguồn. Mục đích của giải pháp này nhằm làm rõ giai đoạn văn hoá Hùng Vương và thời đại Hùng Vương dựng nước.
Phòng 1: giới thiệu chung nội dung trọng tâm thứ nhất:
Đất nước, con người một thời nguyên thuỷ. Với số lượng hiện vật gồm 1 sa bàn, 1 hộp hình, 2 bức tranh sơn mãi cỡ lớn, 18 mẫu động thực vật, 12 mẫu khoáng sản, 20 công cụ đá Sơn Vi và một số ảnh chụp cùng những hiện vật khác đã khái lược hình thế thiên nhiên và sức sống buổi bình minh lịch sử của con người Việt Nam. Một vùng đất hợp lưu nơi ngã ba sông Hồng, Đà, Lô giàu đẹp và thuận lợi từ hàng vạn năm xa xưa đã trở thành môi trường tụ cư sinh sống cho các loại động, thực vật và cho con người. Lớp trầm tích tìm được và hộp hình cùng những ảnh chụp hang Ngựa (Thu Cúc- Thanh Sơn) là di chỉ xa xưa đầu tiên có dấu vết cư trú của con người cách nay trên 4 vạn năm. Dấu vết hoá thạch của các xương lợn rừng, hươu nai là dấu vết minh chứng cho sự vận động của con người chinh phục thiên nhiên để duy trì sự sinh tồn ở thời kỳ xa xưa ấy.
Trong tiến trình phát triển lịch sử xã hội, con người Việt Nam thời thượng cổ đã trải qua 5 giai đoạn văn hoá: Sơn Vi, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, 5 giai đoạn phát triển văn hoá là 5 bước tiến dài vạn dặm trong lịch sử phát triển của dân tộc. Hơn 100 địa điểm văn hoá Sơn Vi có độ tuổi từ 1 vạn rưỡi đến 2 vạn năm với những công cụ cuộc ghè đập là chứng tích sinh tồn của người nguyên thuỷ trên đất Vĩnh Phú- Văn Lang, đất bản bộ của các Vua Hùng.
Phòng 2: Bắt đầu thời dựng nước
Bằng những hiện vật gốc có chọn lựa phong phú từ ba nền văn hoá: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun… có nhiều tài liệu khoa học phụ mô tả từng mảng cuộc sống sinh hoạt của con người vận động hợp quy luật biến thiên của lịch sử. Công cụ đá mài từ giản đơn đến phức tạp, từ thô ráp đến tinh xảo: rìu có vai, rìu mài tứ diện, cuốc đá, chày nghiền, đồ trang sức (vòng tay đá, khuyên đá…) vô cùng phong phú bên cạnh những sưu tập gốm đa dạng: nồi, vò, bình gốm, bát gốm, dọc xe chỉ, chài lưới… được trưng bày nhằm giới thiệu cho người xem thấy được nghề sống chính của cư dân nguyên thuỷ nước ta là làm nông nghiệp, trồng lúa nước, săn bắt và hái lượm. Qua từng bước biến thiên của lịch sử, con người từ chỗ sống bằng săn bắt, hái lượm đã biết đấu tranh cải tạo thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cuộc sống con người. Nền kinh tế nông nghiệp một ngày phát triển. Cuộc sống con người dần no đủ, có tích luỹ của cải, có sự phân chia người nghèo, kẻ giàu có sự hình thành giai cấp. Những Nha chương bằng đá tìm được ở Gia Thanh, Thanh Đình(Phong Châu) là vật chứng điển hình chứng minh cho sự hình thành các tộc người, sự tập trung uy quyền vào người đứng đầu bộ tộc. Khi công cụ bằng đồng xuất hiện, những mùi cày đồng (Vạn Thắng), lưỡi liền đồng (Gò De), lưỡi rìu đồng (Làng Cả) được ra đời và ngày càng đa dạng, phong phú. Đó là dấu tích chứng minh cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp buổi ban đầu.
Những mũi lao, mũi tên đồng, lưỡi câu đồng là vật chứng không chỉ chứng minh cho sự phát triển trí tuệ và khả năng chinh phục thiên nhiên phục vụ cuộc sống con người. Đó còn là dấu hiệu khả năng tự vệ của con người trong sự đấu tranh giai cấp, đấu tranh sinh tồn giữa các tộc người trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp.
Dấu tích sự ra đời của hạt lúa đã đánh dấu bước tiến dài trong lịch sử kinh tế nông nghiệp. Đó là hiện vật gốc chứng minh cho thành tựu lớn lao của con người chinh phục tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cuộc sống con người.
Phòng 3: Sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các Vua Hùng
Hàng năm hiện vật được trưng bày để nêu bật chủ đề văn hoá Đông Sơn — văn hoá Hùng Vương, song đáng chú ý gây ấn tượng sâu sắc nhất cho người xem là bộ sưu tập trống đồng (10 chiếc) được phát triển rải rác trên thềm đất Phong Châu. Tiêu biểu hơn cả là chiếc trống đồng Đền Hùng. Chiếc trống này được phát hiện tại làng Cổ Tích cách chân núi Hùng khoảng 500m. Cho tới nay trống đồng Đền Hùng được các nhà khoa học xếp vào các loại đứng đầu hàng dọc trong hệ thống trống loại 1 Hê gơ tìm thấy ở Việt Nam. So với trống đồng Đền Hùng kiểu dáng và cách thức trang trí tương đồng song có kích thước và dáng vẻ bề thế hơn và điều quan trọng là nó được tìm thấy ngay tại chân núi Hùng.
Bên cạnh trống đồng Đền Hùng là trống đồng Tân Long. Đây là một trong những chiếc trống có đường kính lớn nhất so với toàn bộ trống đồng tìm thấy ở Việt Nam (trống đồng có đường kính mặt 108 cm).
Bộ hiện vật điển hình thứ 2 là sưu tập vũ khí bằng đồng, lưỡi cày đồng, thuổng đồng, rìu đồng, dao găm đồng, mũi tên đồng, lao đồng…đa dạng và phong phú. Đó là dấu hiệu phản ánh giai đoạn văn hoá Đông Sơn phát triển rực rỡ, có sự phân diện rộng rãi từ biên giới phía bắc tới các tỉnh miền trung nước ta bây giờ. Công cụ đồng xuất hiện ngày càng đa dạng, phong phú và điêu luyện, cục diện kinh tế ngày càng phát triển đã đưa trình độ xã hội phát triển cao hơn. Các thủ lĩnh họ Hùng với cương vị đứng đầu bộ lạc văn lang từ nền tảng kinh tế lạc hậu thời kỳ đá mới qua giai đoạn sơ kỳ đồng thau đã vượt lên mở rộng địa bàn, đẩy mạnh sự phát triển văn minh và xã hội tới bước phát triển cực thịnh trong gia đoạn văn hoá công cụ đồng thau — sắt sớm. Từ sự liên minh bộ lạc đến sự áp phục 15 bộ lạc gần xa để trở thành thủ lĩnh liên minh bộ lạc rồi quân chủ quốc gia: Hùng Vương ở thiên niên kỷ 11 trước công nguyên. Bộ Văn Lang của các thủ lĩnh họ Hùng đã trở thành địa bàn gốc của nước Văn Lang. Một nhà nước xã hội kiểu “ phương thức sản xuất Châu A” ra đời, nhà nước đầu tiên của xã hội Việt Nam. Đó là thành tựu, là công lao vĩ đại không gì sánh nổi của các vua Hùng. Nền văn hoá mang sắc thái riêng và cốt cách riêng của dân tộc bắt đầu được hình thành và phát triển. Một giai đoạnh lịch sử, một thời đại mới ra đời: Thời đại xây dựng đất nước của các vua Hùng.
Phòng 4 và 5: giới thiệu khi di tích lịch sử Đền Hùng, vịêc thờ cúng vua Hùng trên thềm đất cổ Phong Châu, tình cảm của nhân dân, sự quan tâm của các chế độ xã hội tới Đền Hùng.
Cho tới nay qua kiểm kê di tích lịch sử văn hoá, trên đất Vĩnh Phú có 587 nơi thờ Hùng Vương, vợ con và tướng lĩnh các vua Hùng. Bên cạnh những dấu tích vật chất còn có những trang huyền thoại kỳ diệu phản ánh sự hào hùng, sự bay bổng kỳ diệu của những nhân thần, người anh hùng dân tộc đã có công dựng nước và bảo vệ đất nước.
Các ngôi đình làng: Hùng Lô, Đào Xá, Hương Nộn, Lâu Thượng, Cổ Tích…là những công trình kiến trúc hoàn hảo ở mọi góc độ được nhân dân lập nên để thờ cúng vua Hùng nhưng đó lại là di tích quan trọng vào bậc nhất. Ơ đó di tích không chỉ mang tính tưởng niệm trong các ngôi đền do dân đời sau lập nên mà ở đây dấu tích lưu niệm của các vua Hùng vẫn còn phảng phất trong những pho huyền thoại lịch sử.
Bộ hiện vật tiêu biểu của phòng 4 và 5 là bộ sưu tập ảnh lễ hội Đền Hùng trong thế kỷ XX và đặc biệt tiêu biểu hơn cả là bộ ảnh lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Đền Hùng năm 1954 với sự kiện lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Danh nhân Văn hoá Thế giới đã căn dặn: “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” với 61 tài liệu khoa học của các học giả, các nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về Đền Hùng và thời đại Hùng Vương được trưng bày cùng với hơn 100 hiện vật do đồng bào Việt Nam khắp mọi miền thờ cúng vua Hùng đã nêu bật chủ đề: Tình cảm và trách nhiệm của nhân dân với Đền Hùng và các vua Hùng đã có công dựng nước.
Còn nhiều nữa hình ảnh các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước thăm viếng Đền Hùng xem xét quy hoạch tổng thể di tích Đền Hùng xây dựng nhà bảo tàng Hùng Vương…. Bên cạnh một số hình ảnh các đoàn khách quốc tế thăm Đền Hùng đều phản ánh tấm lòng của dân tộc và bè bạn với Tổ tiên dân tộc Việt Nam.
Trong nhà bảo tàng còn có 1 phòng chiếu video với sức chứa trên 50 người xem một lượt các bộ phim về lễ hội Đền Hùng xưa, nay, phim về một số tích trò dân gian theo thuyền thoại, lịch sử được chiếu phục vụ khách tham quan. Đó là những tài liệu hình ảnh sống động mô phỏng sự tích lịch sử đã cung cấp cho người xem nhiều tư liệu khoa học và một số lượng thông tin lớn về lịch sử Việt Nam, dân tộc Việt Nam, xã hội Việt Nam, văn hoá Việt Nam thời vua Hùng dựng nước.
Nhà bảo tàng Hùng Vương ra đời đã phần nào đáp ứng lòng mong đợi của đồng bào cả nước, của người Việt Nam sống xa Tổ quốc, của các nhà khoa học và của bè bạn Quốc tế. Thăm viếng Đền Hùng và tham quan nhà bảo tàng Hùng Vương người Việt Nam có được một dịp ôn lại truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, hiểu sâu sắc hơn về thời đại các vua Hùng dựng nước và tấm lòng toàn dân tộc với Đền Hùng. Còn đối với khách Quốc tế thăm Đền Hùng và bảo tàng Hùng Vương sẽ có dịp hiểu được ngọn nguồn dân tộc Việt Nam, văn hoá Việt Nam, truyền thống Việt Nam và đạo lý của con người Việt Nam.
Nhìn tổng thể nội dung và ý đồ trưng bày bảo tàng Hùng Vương là hướng người xem vào chiều sâu tư tưởng, nhận được dung mạo con người Việt Nam: Quá khứ — Hiện tại — Tương lai. Mặt khác nội dung trưng bày bảo tàng Hùng Vương phản ánh được mối quan hệ giữa vua Hùng — Đền Hùng và thời đại Hùng Vương dựng nước.
Bảo tàng Hùng Vương đã trở thành di sản văn hoá mọi thời đại. Đó là một thiết chế văn hoá quan trọng của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tưởng niệm công lao của các vua Hùng đã có công dựng nước.
Phú Thọ là nơi có các đình, đền, miếu để thờ các vua Hùng và các tướng lĩnh của vua Hùng nhiều nhất Việt Nam. Cho nên, lễ hội quan trọng và đáng kể nhất nơi đây phải nói đến đó là lễ hội giỗ tổ Hùng Vương- lễ hội đã được nhà nước công nhận là Quốc Lễ.
Toàn tỉnh có 700 điểm thờ, tập trung nhiều nhất ở Lâm Thao, huyện Tam Nông, thành phố Việt Trì, huyện Phù Ninh, huyện Thanh Thủy, huyện Cẩm Khê. Các đền thờ này chủ yếu thờ các bài vị sắc phong của các vua Hùng và tướng lĩnh.
Khu du lịch Bạch Hạc - Bến Cát
Phường Bạch Hạc, phường Bến Gót nằm ở phía Nam thành phố Việt Trì, cửa ngõ nối liền giữa Phú Thọ và các tỉnh miền núi phía Tây Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Ngã ba Hạc từ lâu đã nổi tiếng bởi vùng sông nước hữu tình, nơi tụ nhân, tụ thuỷ, tụ khí, buôn bán kinh doanh sầm uất. Trên mảnh đất này còn tồn tại nhiều di tích lịch sử văn hoá, gắn liền với vùng "địa linh, hào khí", bên cạnh đó là những sự tích từ thời vua Hùng dựng nước Văn Lang. Cho đến ngày nay, vùng ngã ba Hạc vẫn còn tồn tại nhiều di tích lịch sử văn hoá có giá trị, có thể phát triển nhiều loại hình du lịch như thể thao, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí....
Ngã ba Hạc hợp lưu bởi sông Thao, sông Đà, sông Lô, tạo nên dòng trong, dòng đục, nước sông rộng mênh mông như biển cả, xa xa tả có Tam Đảo, hữu có Ba Vì, hai bên bờ là các làng mạc, ruộng vườn tươi tốt, bến sông thuyền bè tấp nập vào ra.... tất cả những phong cảnh đó đã tạo cho ngã ba Hạc có cảnh trí vừa thơ mộng, vừa hữu tình. Bạch Hạc - Bến Gót ngày nay thuộc phủ Tam Đới xưa, còn tồn tại rất nhiều di tích lịch sử văn hoá, các truyền thuyết, chuyện kể về quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta như: “Hoa Long Thiền Tự” xưa ở bến sông Thông, cạnh chùa có một tảng đá ven sông, trên mặt còn hằn vết gót chân. Tương truyền, đây là nơi Lạc Long Quân lập đàn tế trời và đã được tiên ông từ trên trời xuống, ngồi trên tảng đá này, đặt tên, phân định anh em cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra, sau nơi đây buôn bán kinh doanh sầm uất, trên bến dưới thuyền mới có tên là Bến Gót, Đình Bạch Hạc còn có tên là đình thôn Việt Trì là nơi thờ các vua Hùng, Đền Lang Đài là nơi hai chàng Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đấu võ, Miếu Hà Thần là nơi thờ thần Sông đã có công giúp vua Trần Minh Tông đánh Man Đà Giang dẹp yên bờ cõi, Đền Bạch Hạc là nơi thờ thổ lệnh có tên huý là Trần Lan và em là Thạch Khanh tên huý là Trần Bảo có phép thuật thần y, chữa được bách bệnh cho nhân dân, sau hoá thần ở Tam Thanh Quán bên bờ sông Bạch Hạc, được phong làm thần thiêng ở ngã ba sông Hạc..... Ngoài ra trên mảnh đất này còn tồn tại rất nhiều sự tích ly kỳ, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc như: Hội bơi chải, Hội giã bánh dầy,... nói lên sự hình thành tên làng, tên xóm, tên sông, những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của của nhân dân ta gắn liền với nền văn minh sông Hồng và nền văn minh lúa nước.
Với diện tích 100 ha, khu Du lịch Bến Gót được chia thành 2 phần ở bờ Bắc và bờ Nam sông Lô, trong đó phần lãnh thổ phía Bắc (thuộc phường Bến Gót) là chủ yếu. Khu du lịch có đặc trưng điển hình của vùng trung du Bắc Bộ, với địa hình nhấp nhô, phần đất phía Bắc có vị thế như một bán đảo quay về hướng Đông Nam, tạo nên hình ảnh về bến nước, dòng sông. Đặc biệt là sự gắn kết hài hoà giữa đồi núi, cây cối, sông nước tạo nên phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, thích hợp để xây dựng khu du lịch nghỉ ngơi, thư giãn, vọng cảnh. Khu du lịch Bến Gót bao gồm những thành phần chủ yếu như: vui chơi giải trí, thể thao, nhà vườn, cắm trại, khách sạn, nhà nghỉ, câu cá, trại sáng tác, lầu bình thơ,... được tổ chức tạo thành trục chủ đạo đi từ cổng chính đến khu lầu tưởng niệm và vọng cảnh phía bờ sông, kết thúc là Lầu Bạch Hạc. Lầu Bạch Hạc được xây dựng theo hướng vươn cao vừa tượng trưng cho đàn tế trời vừa là nơi du khách có thể ngắm cảnh xa xa, dưới tầng lầu có bia tưởng niệm 100 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ, giúp cho du khách hiểu rõ hơn nguồn gốc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh Lầu Bạch Hạc được tái dựng tảng đá lưu vết chân và hình dáng tiên ông phân định ngôi thứ, mở đầu cho sự hưng thịnh, đoàn kết, thương yêu, đùm bọc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Phần đất phía Nam chủ yếu dành cho các di tích lịch sử và thể thao nước truyền thống, một phần dành cho các nhà nghỉ nhỏ dưới dạng vườn nông thôn, vườn sinh thái,... Việc phân khu chức năng trên cơ sở địa hình của khu vực quy hoạch và các di tích lịch sử, truyền thuyết sẵn có của khu vực, tạo nên hệ thống không gian sinh động, gây ấn tượng mạnh mẽ, có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch.
(Nguồn: saigontoserco.com)
Ý kiến của bạn
Non nước Việt Nam
Doanh nghiệp Du Lịch