Lễ hội
Hội làng La Vân
Ngày nay, La Vân là một thôn của xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình- nơi nổi tiếng ở Châu thổ Bắc Bộ với nghề ương bèo hoa dâu vào thập niên 1970 trở về trước
Trên mảnh đất có bề dày lịch sử ấy, nằm giữa làng là quần thể di tích đình- đền- chùa La Vân. Trong dân gian, di tích còn được gọi bằng nhiều tên khác nhau như "Đền La Miên", "Đình Miên", "La Miên linh từ", "Bảo Long am từ", "Quốc sư từ"… Vị Thánh tổ được thờ ở Đền La Vân là Quốc sư Nguyễn Minh Không. Ông tên thật là Nguyễn Chí Thành, quê làng Đàm Xá, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ông là học trò của của sư Dương Không Lộ, Từ Đạo Hạnh và Giác Hải. Ông là một vị cao tăng triều Lý giỏi pháp thuật, trừ mọi tai ách cho thiên hạ, đã từng giữ chức Thái sư. Trong cuộc đời tu luyện Phật học và cứu nhân độ thế, sư Minh Không có nhiều công lao trong việc xây dựng chùa tháp, đặc biệt là đúc tượng- đỉnh của các công trình kiến trúc Phật giáo nổi tiếng ở nước ta thời Lý. Dân gian còn tôn ông là ông tổ nghề đúc đồng ở Việt Nam.
Tục truyền rằng Thành hoàng làng là Uy Minh đại vương Lý Nhật Quang, con Lý Hành, em vua Lý Anh Tôn. Theo bản văn tế tại miếu (văn tế được sao từ nguyên bản năm 1886) cho biết còn một Thành hoàng khác tên là Thiên Đê đại vương- người có công "giáo dân dưỡng nghệ bình cầm" dạy cho dân ươm gây bèo hoa dâu, làm cho "dân khang vật thịnh".
Hàng năm làng mở hội hai lần vào ngày mồng 4 tháng giêng và từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 3 âm lịch. Trong sử sách không ghi chép chính xác ngày sinh của Quốc sư Nguyễn Minh Không- vị thánh tổ thờ ở đền. Tục truyền, ngày mồng 1 tháng 8 âm lịch mới là ngày mất của ông. Do vậy, thời gian mở hội và kết thúc hội không có liên quan gì tới vị thánh tổ thờ ở đền.
Đình gắn liền với chùa trong quần thể kiến trúc di tích nên đình là nơi tế lễ Thành hoàng và cũng là nơi thờ thần, nhưng là hậu thần, không phải chính thần (chính thần là Thành hoàng). Hậu thần được tôn thờ ở đình là bà Vũ Thị Ngọc Tấn- người có công bỏ của ra tu sửa đình cũ; tu sửa xong, đến kỳ cầu phúc (tháng 3 âm lịch) bà tổ chức rước tổ Phật (Nguyễn Minh Không) ra đình trung xem hát chờ ngày "mãn tịch" rước về chùa. Sau này, con cháu lập khoán ước tạc bia, gọi đó là ngày "vui giỗ đình". Việc làm ấy được nhà vua đồng ý. Bà Ngọc Tấn sinh ngày 26 tháng 10, mất ngày 20 tháng 1 âm lịch, không rõ năm. Có lẽ vì thế mà dân làng chọn ngày mở hội (20) và kết thúc hội (26) vào tháng 3 âm lịch để tưởng nhớ công ơn của bà đối với dân làng chăng? Lệ đó được duy trì cho đến ngày nay.
Hội mùng 4 tháng Giêng ở La Vân là hội "trình nghề" với những hình thức diễn xướng dân gian độc đáo như một bức tranh thu nhỏ phản ánh xã hội xưa với đầy đủ thành phần sĩ, nông, công, thương…
Làng La Vân xưa có 7 giáp cùng chung lo tổ chức hội làng. Vào cuối tháng một đầu tháng chạp, các giáp trong làng vừa lo chuẩn bị tết Nguyên Đán, vừa tất bật đưa bèo giống ra ương, lại vừa lo lực lượng, phương tiện đua tài trong hội; nhưng chuẩn bị công phu nhất vẫn là việc chọn người và phương tiện ra dự trò tứ dân "sĩ- nông- công - cổ" trong ngày hội làng- đây là một trò trình nghề xuyên suốt các hoạt động hội.
Trước tết nửa tháng, làng bầu chọn ông chủ hội, các giáp bầu chọn ông chiềng cờ. Chiềng cờ là người chịu trách nhiệm tổ chức cho các thành viên của giáp mình vào thi tài ở các lớp diễn. Sáng mồng 4 tết, dân làng xem hội đứng chật sân đình, chính giữa sân giành chỗ cho đội múa lân, múa cờ… Bắt đầu hội là màn múa lân độc đáo, hấp dẫn giành được nhiều tình cảm của dân làng và dưới sự điều hành của ông chủ hội, 7 vị chiềng cờ của 7 giáp xuất hiện múa cờ một vòng quanh sân và đọc lời giới thiệu về giáp mình. Các thành viên trong giáp theo ông chiềng cờ ra tập trung ở giữa sân. Sau lời giới thiệu của ông chiềng cờ, các lớp diễn trò bắt đầu.
Lớp trò "sĩ": ông thầy đồ mặc bộ quần áo trùng màu đen trông oai nghiêm, chân đi guốc mộc, một tay chống nách, tay kia cầm chiếc roi mây vừa đi vừa quất vào không khí nghe vun vút. Cậu học trò mặc bộ quần áo màu nâu với nhiều miếng vá chằng chịt, quần ống thấp ống cao, chân tay bê bết mực, nách cắp chiếc tráp xộc xệch chạy theo thầy; trên đường đi tỉnh thoảng lại đánh rơi sách, rơi bút, bị thầy quát, thầy đánh đòn, vừa nhặt vừa chạy vừa xoa mông cho đỡ đau. Thầy ngồi khoanh chân lên chiếc chiếu trải sẵn góc sân đình, sách để trên tráp, một tay mở sách, một tay quất roi; trò khép nép đứng bên. Thầy đọc trước, trò đọc theo; thầy đọc sai trò cãi, thầy đánh; thầy hỏi một đằng, trò trả lời một nẻo, những lúc như thế từng tràng cười giòn giã vang lên khuyến khích lớp diễn hấp dẫn.
Góc sân đình bên cạnh là lớp trò "công" với vai ông thợ mộc. Bộ đồ nghề của ông thợ gồm cưa, đục, rìu… Ông thợ cứ hì hục làm, khi thì đẽo một cái chày giã cua, khi thì cưa tre đóng một cái chuồng gà, lúc thì nhổ đinh, vừa làm vừa nghe tiếng đế theo của khán giả tạo ra không khí vui nhộn.
Ở một góc sân khác, lớp trò "cổ" (hay "thương") diễn ra tấp nập giữa kẻ bán và người mua. Kẻ bán quẩy đôi quang gánh trong đó có đủ thứ: mắm, muối, rau củ, hoa quả, bánh trái…đi rao, rao thế nào để gây cười và bán được càng nhiều hàng càng tốt. Tiếng người mua ngã giá, mặc cả, tiếng người bán chanh chua, ngoa ngoắt khi người mua trả giá quá rẻ… đan xen lẫn nhau tạo ra nhiều tràng cười vui vẻ.
Náo nhiệt nhất vẫn là lớp trò "nông". Trên một góc sân đình, một "mảnh ruộng" nhỏ đã được be bờ, tát nước và thả sẵn bèo hoa dâu. Đàn ông hóa trang thành bà cấy, đầu chít khăn mỏ quạ, mặc yếm đào, độn ngực, váy cuốn cao như các cô thôn nữ đi làm đồng. Người nữ đóng ông thợ cày đầu chít khăn mỏ rìu, vác cày hoặc bừa làm bằng bẹ chuối và lá dọc dừa, quần xắn cao quá đầu gối, tay cầm roi tre, vừa đi vừa quát "trâu". Người đóng vai "trâu cày" là khổ nhất, đi phải cúi khom lưng, thỉnh thoảng lại bị ông thợ cày quất cho một roi vào mông vì không cày thẳng hàng. Đầu "trâu" làm bằng chiếc gầu giai phất giấy màu đen, thân "trâu" là chiếc bồ. Khi bị đánh "trâu" lồng lên té ướt cả bà cấy và người xem, có lúc "trâu" tỏ ra ngoan ngoãn, thong thả bước, có lúc còn trêu ghẹo "cắn" vào mông bà cấy, bà cấy giật mình chạy té ướt mọi người; mấy ông vạc bờ cuốc góc thỉnh thoảng lại ve vãn bà cấy gây cười, hoặc đối đáp hát ví von.
Trước đây, trò diễn có chấm giải, chủ yếu dựa vào sự chuẩn bị công phu và tính hài hước của từng trò mà đánh giá. Nay trò diễn không chấm điểm, không xếp hạng nhưng giáp nào cũng lo chuẩn bị công phu, độc đáo để còn nhận được tiếng thơm của dân làng và trò diễn luôn được thôn La Vân 1-2-3 duy trì đều đặn và nhận được sự cổ vũ nhiệt tình của dân làng.
Hoạt động hội từ 20 đến 26 tháng ba âm lịch đã trở thành sức sống mãnh liệt trong mỗi dịp làng mở hội. Trong hội có rất nhiều các nghi lễ cổ, các trò chơi, trò diễn dân gian hết sức phong phú như tục rước tế, chơi cờ người, tổ tôm điếm, chọi gà, đấu vật… thu hút sự tham gia của dân làng và các du khách gần xa. Sau màn múa lân, múa rồng rộn rã, lễ rước Thành hoàng làng về dự hội được tiến hành .
Đám rước được bắt đầu từ hậu cung đình ra miếu và chùa cổng sau đó trở về đình làm lễ. Đường đi của đám rước theo một vòng quanh làng. Đội múa lân đi trước dọn đường, kế là đội cờ, phường bát âm, đoàn người mang cờ, trống, đồ bát bảo, nhang án, võng lọng. Tiếp đến là kiệu Thánh (Nguyễn Minh Không), kiệu Thần, kiệu Quan, kiệu Phật, kiệu Mẫu, đoàn quân hội múa kéo chữ, đoàn hành lễ, đoàn đại biểu và dân chúng dự hội. Các vị trong đội tế chân đi hia, đầu đội mũ cánh chuồn, quần áo tế sặc sỡ, đủ màu sắc. Đám rước đi một đường, về một đường, đi trong tiếng chiêng, tiếng trống vang động, tiếng nhạc của phường bát âm rộn rã cùng tiếng người dự hội tạo nên không khí sôi động, nhộn nhịp. Sau khi đi vòng đường làng, qua những bờ ngô bãi mía xanh tươi, đám rước trở về đình. Trên sàn tế, chính giữa đình nghi lễ được bắt đầu. Kiệu và tượng Thánh được đặt vào vị trí trang trọng nhất tại đình. Kế theo là lễ dâng hương nghiêm cẩn để tế Thánh. Lễ vật tế Thánh ngoài hương, nến, trầu cau, rượu, mâm ngũ quả còn có một mâm xôi trắng và sỏ lợn.
Trong đình làng khói hương nghi ngút, người trong làng, khách thập phương ra vào lễ Thánh tấp nập cầu chúc năm mới nhiều may mắn, người khang, vật thịnh, mưa thuận gió hòa… ngoài sân đình các trò chơi, trò múa kéo chữ, trò diễn dân gian như chơi cờ người, đấu vật, đua thuyền, chọi gà, đánh đu… cũng đồng thời được tiếp diễn. Người ta đua nhau vui chơi, thi thố tài năng để giành giải thưởng, thử vận may.
Chiều ngày 26 tháng ba, dân làng tổ chức rước kiệu Thánh từ đình về miếu và làm lễ yên vị, kết thúc một mùa hội tưng bừng, náo nhiệt trong sự cộng cảm, hào hứng của hàng ngàn người lao động trong vùng và du khách thập phương.
Bao hàm những nội dung mang tính lịch sử và văn hóa truyền thống, hội làng La Vân đã và đang được phát huy tác dụng tích cực trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở một vùng quê lúa./.
(Nguồn: www.thaibinh.gov.vn)
Ý kiến của bạn
Non nước Việt Nam
Doanh nghiệp Du Lịch